QUẢN LÝ HẠ TẦNG BƯU CHÍNH, VIỄN THÔNG:
GIS - “trợ thủ” đắc lực
Sự phát triển nhanh, bùng nổ của viễn thông thời gian qua dẫn đến nhiều bất cập trong phát triển hạ tầng mạng lưới và công tác quản lý nhà nước. GIS (hệ thống thông tin địa lý) - ứng dụng công nghệ với tính năng ưu việt - đang được Sở TT&TT nghiên cứu ứng dụng quản lý hạ tầng bưu chính, viễn thông. Hơn thế, GIS còn gợi mở trong quản lý hạ tầng đô thị của tỉnh.
Bình Định hiện có 5 mạng điện thoại di động đang hoạt động, khoảng 1.300 vị trí cột thu phát sóng di động (BTS). Vùng phủ sóng thông tin di động bị cản trở lớn bởi địa hình tương đối phức tạp. Việc phát triển hạ tầng bưu chính, viễn thông (BCVT) không đồng đều, mỗi DN xây dựng một hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động riêng, dẫn đến chồng chéo, lãng phí nguồn vốn đầu tư và ảnh hưởng mỹ quan đô thị.
Sự phát triển nhanh, bùng nổ của viễn thông thời gian qua đòi hỏi cần thiết ứng dụng GIS trong quản lý hạ tầng BCVT.
Giải bài toán chồng chéo, lãng phí
Liên quan đến bất cập trong quản lý hạ tầng BCVT của tỉnh, ông Nguyễn Quang Khải - Phó Giám đốc Viễn thông tỉnh, Giám đốc Trung tâm Kinh doanh VNPT Bình Ðịnh - dẫn ngay chuyện cấp phép xây dựng các trạm BTS. “Đó là câu chuyện khiến DN viễn thông rất đau đầu. Để được cấp phép xây dựng trạm BTS phải qua nhiều cơ quan, cấp thẩm quyền, nhưng đi vào thực tế triển khai vướng rất nhiều, như hệ thống thoát nước chẳng hạn. Nên khi xây dựng trạm BTS, DN phải thỏa hiệp với các đơn vị đang quản lý các hệ thống nói trên, rất tốn kém. Nếu làm được hệ thống GIS trong quản lý hạ tầng BCVT thì rất tốt, không chỉ cho cơ quan quản lý mà ngay cả DN viễn thông cũng rất đỡ”, ông Khải cho biết.
Giải quyết bài toán này bằng GIS, Phó Giám đốc Sở TT&TT Võ Gia Nghĩa cho rằng sẽ đơn giản hơn rất nhiều và chỉ qua thao tác “kích chuột”. Các DN viễn thông đăng ký thông tin được Sở TT&TT cấp tài khoản để sử dụng. Trường hợp giao dịch cấp mới xây dựng trạm BTS, DN đăng nhập vào tài khoản sẽ thấy toàn bộ hệ thống trạm BTS trên bản đồ và vùng phủ sóng giả định; xem được vùng phủ giả định giao thoa sóng, qua đó xác định được vùng lõm sóng… Đây cũng là công cụ hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định cấp phép cho các DN triển khai xây dựng trạm.
“Ứng dụng công nghệ GIS được Sở TT&TT xây dựng từ năm 2016 đến nay. Với khả năng xử lý của GIS, thông tin cung cấp sẽ kịp thời, chính xác hơn nhiều so với cách quản lý và xử lý thủ công trên giấy. Dữ liệu của các đơn vị được chia sẻ trên mạng, tạo nhất quán trong việc cung cấp thông tin hỗ trợ ra quyết định. Cơ sở dữ liệu GIS về hạ tầng BCVT được cập nhật mở rộng, thiết lập mối quan hệ giữa chính quyền với DN”, Phó Giám đốc Sở TT&TT Võ Gia Nghĩa cho hay.
Phát biểu tại Hội thảo ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý hạ tầng BCVT tại Bình Định (do Sở TT&TT vừa tổ chức) tại TP Quy Nhơn, TS Lưu Đình Hiệp, Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin Địa lý (thuộc Trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh), khẳng định GIS là công cụ quan trọng để quản lý thông tin, góp phần quan trọng và ứng dụng hầu hết trong các lĩnh vực, trong phục vụ nghiên cứu, quy hoạch và quản lý các hoạt động.
Mở rộng GIS trong quản lý đô thị
TS Lưu Đình Hiệp còn khẳng định, các ứng dụng GIS cho các cơ quan Chính phủ, cho các chuyên ngành và cho cộng đồng cũng được phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý đô thị, quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trường, quản lý các vấn đề KT-XH...
Ông Nguyễn Quang Khải cho rằng: “Với tính năng nổi trội của GIS, phạm vi ứng dụng quản lý không nên chỉ gói gọn trong lĩnh vực BCVT mà cần mở rộng ra quản lý đô thị. Trong đó, đơn vị chủ trì nghiên cứu là Sở TT&TT có thể đề xuất UBND tỉnh sớm triển khai hệ thống này, làm nền tảng thực hiện đề án xây dựng thành phố thông minh”.
Ở góc độ cơ quan quản lý, Phó Giám đốc Sở KH&CN Nguyễn Hữu Hà thông tin thêm, một số ngành, địa phương trong tỉnh ứng dụng công nghệ GIS trong các lĩnh vực lập bản đồ địa giới hành chính, quản lý đất đai, nông nghiệp, tài nguyên môi trường, du lịch… “Nhà nước đầu tư rất nhiều xây dựng hệ thống các dữ liệu, nhưng hiện đang tản mác ở các sở, ngành. “Gom” các cơ sở dữ liệu này lại rất khó khăn, nhưng là việc cấp thiết và phải có một trung tâm cơ sở dữ liệu dùng chung cho tỉnh. Làm được điều này, cần có sự chia sẻ, đồng lòng của các sở, ban, ngành, mà đề tài nghiên cứu của Sở TT&TT là nền tảng ban đầu”, ông Hà đề xuất.
Từ kinh nghiệm xây dựng ở TP Hồ Chí Minh, TS Lưu Đình Hiệp gợi mở hướng đi cần thiết phải xây dựng các quy định khung liên quan đến việc cập nhật, khai thác dữ liệu không gian về đô thị giữa các cơ quan, ban, ngành của tỉnh. Thậm chí, xác định một cơ quan đứng đầu để chịu trách nhiệm điều phối việc chia sẻ dữ liệu giữa các sở, ban, ngành, truy cập và cung cấp các thông tin không gian và xây dựng chiến lược, chính sách, hướng dẫn và tuân thủ các tiêu chuẩn.
“Cần tiên phong, đột phá để có một chính sách truy cập dữ liệu không gian thông thoáng hơn, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của các cơ quan, DN và người dân. Khó khăn lớn nhất trong việc phát triển và ứng dụng GIS là sự thiếu hợp tác của các tổ chức và cá nhân được giao trách nhiệm nắm giữ các loại thông tin, dữ liệu”.
TS LƯU ĐÌNH HIỆP
THU HIỀN