KỶ NIỆM 110 NĂM NGÀY BÁC HỒ RA ÐI TÌM ÐƯỜNG CỨU NƯỚC
Hồ Chí Minh: Gánh nặng, đường xa, chí lớn
Tôi, cũng như bao người Việt Nam yêu nước khác, thường gọi Hồ Chí Minh là Bác Hồ, như một sự tôn kính và một tình yêu thương. Trong bài này, tôi vẫn gọi như vậy.
Làm tất cả để được ra đi
Ngày 5.6.1911, khi xuống tàu biển mang tên “Đô đốc Latouche-Tréville” lên đường sang Pháp, Bác Hồ có “chức vụ” là phụ bếp. Phụ bếp trên tàu biển là một nghề rất nặng nhọc, hơn nữa việc nặng mà lương lại thấp. Bác Hồ chấp nhận làm nghề này để được sang Pháp.
Tượng đài Nguyễn Sinh Sắc - Nguyễn Tất Thành tại Quảng trường Nguyễn Tất Thành (TP Quy Nhơn). Ảnh: DŨNG NHÂN
Khi viết và xuất bản cuốn sách “Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết” (Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 - 1941), TS Sophie Quinn-Judge, Đại học LSE, London, trả lời phỏng vấn một đài phát thanh phương Tây, trong đó bà nhấn mạnh: “Dựa trên tài liệu của Pháp nói về các anh chị trong gia đình ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan Bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nước chống thực dân từ sớm. Tôi tin là ông Hồ Chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc học, nên ông ra nước ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp”. Viết như thế là trung thực và công bằng.
Tôi chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ lớn Tản Đà: “Đôi vai gánh nặng, con đường thì xa/Có chăng ta biết mình ta”. Tình cảnh Bác Hồ lúc ra đi tìm đường cứu nước là như vậy. Có thể khi đã sang Pháp, Bác mới tìm gặp được các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường… và được các cụ giúp đỡ. Nhưng khi lênh đênh trên biển cả, thì đúng là “Có chăng ta biết mình ta”. Cuộc ra đi tìm đường cứu nước của một con người đơn độc như vậy là một cuộc ra đi vĩ đại, vì chưa ai, kể cả người ra đi, lường hết những gì mình sẽ gặp, sẽ vượt qua ở xứ lạ quê người.
Không bao giờ ngừng lao động, ngừng học
Bác Hồ sang Pháp không phải đi theo đường du học, dù Bác có đề nghị để được nước Pháp tiếp nhận như một du học sinh. Nước Pháp thực dân đã thẳng thừng từ chối. Cái này cũng phải nói thẳng ra, vì chẳng có gì cần giấu. Thực dân Pháp đã linh cảm đây chính là con người sẽ chôn vùi chủ nghĩa thực dân Pháp ngay trên đất Việt Nam, và mở đường xóa sạch chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Sự cảnh giác của người Pháp với Bác Hồ là cần thiết. Thực tế cho thấy họ rất cảnh giác với người thanh niên yêu nước này.
Trong suốt quá trình hoạt động ở nước ngoài, chưa bao giờ Bác Hồ thôi tự học. Không học trường, thì học bạn, học đồng chí, học nhân dân, và cuối cùng là tự học. Rất nhiều nhà báo quốc tế có cơ hội phỏng vấn Bác Hồ đều kinh ngạc về khả năng chuyện trò vừa thân mật vừa sâu sắc bằng chính ngôn ngữ của họ. Với các vĩ nhân, tinh thần tự học luôn được đặt lên hàng đầu. Chỉ tự học mới vừa học vừa suy nghĩ, và chỉ vừa học vừa suy nghĩ mới có thể sáng tạo. Dĩ nhiên, với người lao động như Bác Hồ, thì “trường đời” luôn là những trường đại học lớn. Sự từng trải, chiêm nghiệm, nhạy cảm với thế giới bên ngoài, lặng lẽ đi sâu vào thế giới bên trong của mình, để từ đó hiểu nhân dân, hiểu đồng chí, lấy vị tha thay vị kỷ, biết sống vì mọi người, thấy được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ nhân dân mình.
Trụ lại trên đất Pháp đã là khó khăn, nhưng để có thể thông thạo Pháp ngữ, có thể giao tiếp, vận động, tuyên truyền, và viết báo bằng Pháp ngữ, thì quả thật muôn vàn gian khổ. Bác Hồ đã vượt qua những thử thách ban đầu ấy, dĩ nhiên, nhờ sự giúp đỡ của những người yêu nước đàn chú đàn anh. Nhưng nỗ lực tự thân của Bác là chính. Người ta đã tính, ngay trên đất Pháp và trên đất Mỹ, Bác Hồ đã làm rất nhiều nghề, vừa để kiếm sống, vừa để mở rộng quan hệ, và qua đó vận động để những người chánh trực trên đất Pháp và Mỹ biết đến tình cảnh nô lệ thảm khốc của dân tộc Việt Nam. Làm nhiều nghề, nhưng nghề nào cũng tinh, đó mới là sự lạ.
Năm 2003, có dịp đến Paris (Pháp), tôi đã đến một nơi rất gần với một ngôi nhà cũ, nơi đó Bác Hồ đã từng sống một thời gian trong cương vị một người... thợ chụp ảnh. Tuy nơi ấy không còn những chỉ dấu hay hiện vật lưu giữ về nơi Bác Hồ đã từng sống, nhưng những người bạn Việt kiều ở Paris thì biết rất rõ ngôi nhà này.
Ngôi nhà tọa lạc ở một phố nhỏ mà tôi không nhớ tên, rất gần phố Monge (quận 5, Paris), nơi hồi ấy có quán Foyer Viet Nam, một quán ăn thuần Việt do một người bạn tôi làm chủ quán. Nơi ấy còn được gọi là Khu La tinh - một “làng đại học”, xúm xít những trường đại học vào hàng tên tuổi nhất nước Pháp. Như thế, riêng ở Paris, Bác Hồ đã ở nhiều nơi, chứ không riêng ở nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17.
Hồi ấy, từ năm 1911, Bác Hồ qua Paris để làm một người lao động bình thường. Nói như thế để thấy, con đường của nhiều vĩ nhân trên thế giới, trong đó có Bác Hồ, khi thực thi lý tưởng của mình, là con đường lao động. Làm thợ, làm công, làm thuê, học nghề, không từ nan bất cứ công việc nặng nhọc nào, đó là con đường cứu nước của Bác Hồ. Chính lao động và sự cần cù học nghề, từ nghề thợ ảnh tới nghề làm bánh, từ Pháp qua Mỹ, mà Bác Hồ đã vừa làm vừa học, vừa học vừa viết báo, vừa viết báo vừa vận động những người nhiệt huyết từ những dân tộc khác nhau mà Bác quen biết, để họ ủng hộ Việt Nam cùng tìm đường thoát ách đô hộ của thực dân Pháp và giành lại độc lập. Lý tưởng lớn được nung nấu khi làm việc nhỏ, những việc lao động rất bình thường, đó là Bác Hồ của chúng ta. Không có điều kiện học tập chính quy, Bác Hồ học ngay trong trường đời, học cùng những người bạn lao động, và học khi đang lao động kiếm sống.
Có lần, một đoàn cán bộ từ Việt Nam tới thăm khách sạn The Omni Parker House ở Boston, Hoa Kỳ, thăm chiếc bàn làm bánh mà Bác Hồ từng lao động, vị đại diện khách sạn đã dẫn lại lời nữ nhà văn, nhà báo của tờ Boston Globe, bà Susan Wilson viết: “Thật thú vị để lưu ý rằng, một nhà cách mạng trứ danh đã từng dành thời gian làm việc như là một người thợ nướng bánh tại tiệm bánh ngọt Omni Parker House từ năm 1911 đến năm 1913. Vị đầu bếp đặc biệt ấy đã đem đến niềm vinh dự cho nơi này…”.
Bác Hồ, một nhân cách viết hoa
Bác Hồ là người giản dị, khiêm nhường nhưng rất kiêu hãnh. Những người trở thành thiên tài qua lao động đều như vậy. Họ biết giá trị của mình, nhưng bao giờ cũng biết những giá trị cao cả của cộng đồng mình, của nhân dân mình, của đất nước mình. Họ “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc” (thơ Chế Lan Viên), dù Bác Hồ cũng chẳng mấy khi ăn được những miếng ngon. Và đó cũng không phải mục đích của đời Bác. Ham muốn tột bậc của Bác là toàn dân Việt Nam “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Có thể căn bản bây giờ dân mình ai cũng có cơm ăn áo mặc dù còn ở mức thấp, nhưng nói “ai cũng được học hành” thì quả thực, nỗi lo đau đáu của Bác Hồ vẫn chưa được thực hiện đúng như lòng Bác hằng mong.
Bấy giờ, “gánh nặng” chính là tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, còn “đường xa” phải là con đường chiến đấu để thực hiện bằng được lý tưởng. “Chí lớn” ở Bác Hồ thể hiện qua chính cuộc đời Bác, nhu nhã mà mãnh liệt, chịu đựng và bùng cháy, chia sẻ và nhận phần ít nhất về mình.
Khi Bác qua đời, nhà thơ lớn của Cuba là Félix Pita Rodríguez đã viết bài thơ nổi tiếng “Hồ Chí Minh tên Người là cả một niềm Thơ”, trong đó có đoạn:
“Nhà thơ Hồ Chí Minh,
người nông dân Việt Nam trong sáng: Hồ Chí Minh,
Người đã hy sinh từ bỏ mọi tên,
để chỉ còn là một giọng nói,
một hơi thở, một cái nhìn
để chỉ còn là... có gì đâu khác...
là đất nước, là máu xương Tổ quốc”.
Còn nhà thơ Việt Phương của chúng ta, trong bài thơ nổi tiếng “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương” đã viết: “Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt/Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui”.
Tới lúc chết, vẫn thương đồng bào, đó là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta. Dù là lãnh tụ, Bác vẫn mang tâm hồn và phong cách sống của một người nông dân, điều mà nhà thơ Cuba nhạy cảm đã nhận ra. Và nhà thơ Việt Nam đã thấu hiểu.
Từ hai bán cầu, hai nhà thơ chưa hề gặp nhau đã viết về Bác Hồ như vậy.
Điều đó đủ nói lên tất cả.
THANH THẢO