Đ
Đầm, bàu
Trên địa bàn tỉnh Bình Định có nhiều đầm, bàu giàu nguồn lợi thủy sản. Quy Nhơn có đầm Thị Nại; Phù Cát có đầm Đạm Thủy; Phù Mỹ có đầm Trà Ổ; Tuy Phước có đầm Kim Ngân nối thông đầm Thanh Huy, đầm Thanh Huy lại nối thông với vực Ông Đô ở phía đông bắc; An Nhơn có Bàu Sấu, còn gọi là Ngạc Đầm, nổi tiếng nhiều cá chép. Bàu Sấu là Di tích Phong trào Cần Vương Mai Xuân Thưởng.
Đầm Đạm Thủy
Cửa Đề Gi nối thông với một đầm nước ở phía bắc, diện tích khoảng 1.600 ha, một nửa nằm ở Phù Mỹ, một nửa ở Phù Cát, có tên là Đầm Đạm Thủy (Nước ngọt). Đầm hình chữ nhật, bốn cạnh gần bằng nhau, núi Lạc Phụng làm cánh cửa phía bắc, Núi Bà làm cánh cửa phía nam, tây là lưu vực sông La Tinh và các con sông nhỏ, phía đông là động cát trắng chạy từ Tân Phụng đến Vĩnh Lợi. .
Nói là đầm nước ngọt, nhưng nhân dân có thể lấy nước từ đầm để làm muối. Cá đầm Đề Gi ngon hơn cá các đầm khác, nổi tiếng là cá gỏi. Khách vãn lai bão rằng đến Đề Gi mà không ăn cá gỏi chẳng khác nào vào Nha Trang mà không ăn cước cá (hải sâm), đến Thủ Đức mà không ăn nem.
Đầm Đạm Thủy nổi tiếng vì cảnh đẹp, cũng là nơi từng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, ấn tượng nhất là chiến công xuất sắc của thiếu niên anh hùng Vũ Bảo.
Đầm Thị Nại
Đầm Thị Nại, tên chữ xưa kia là Hải Hạc Đàm. Thị Nại nguyên gốc tiếng Phạn là Cri Vinaya, phiên âm qua tiếng Hán thành Thị-lị-bì-nại. Thị Nại là đầm nước lợ và nước mặn có diện tích lớn nhất tỉnh và Miền Trung; lúc thủy triều dânag, Thị Nại có diện tích 3.200-5000 ha, lúc thủy triều xuống, chiều dài từ bắc vào nam là 15 km, chiều ngang, nơi rộng nhất gần 5 km. Các nhánh sông Côn và sông Hà Thanh chảy về đầm, chia bờ phía bắc và bờ phía tây thành nhiều cửa, nhiều lạch, nhều bãi, nhiều doi. Nội thành Quy Nhơn làm bờ phía nam; dãy Triều Châu từ Cách Thử đến Phương Mai làm bờ phía đông; phía ngoài là những động cát trắng rộng mênh mông; phía trong, núi non hiểm trở.
Nước đầm theo thủy triều mà lên xuống và chảy ra cửa Thị Nại (cửa Quy Nhơn), bên tả có Gành Hổ, pháo đài Hổ Ky và mũi Phương Mai; bên hữu là mũi Cổ Rùa, bãi Nhạn, kho Ngói và Tấn sở (để kiểm soát tàu thuyền). Người xưa gọi đây là “thủy khẩu giao nha”, giữ một vị thế xung yếu cho nền quốc phòng. Những lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng, nên sách cổ gọi đầm Thị Nại là biển Cạn.
Trong đầm, về phía tây thuộc địa phận xã Phước Sơn, nổi lên cụm đá rộng, xưa kia gọi là tháp Thầy Bói, nay gọi là Cồn Chim. Phía bắc Cồn Chim, tại bờ phía tây đầm Thị Nại có một bãi cát rộng gọi là bãi Nhạn có giống chim thầy bói ăn cá.
Lòng Đầm Thị Nại còn ẩn chứa nhiều báu vật của nhiều cuộc chiến từ thời Chămpa đến Đại Việt, Tây Sơn và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Đầm Thị Nại nổi tiếng có nhiều cá, tôm (116 loài cá, trong đó có 25 loài có giá trị kinh tế cao; 14 loài tôm, có 3 loài có giá trị; 110 loài rong, đặc biệt rong câu chỉ vàng có sinh khối lớn). Cá đầm Thị Nại rất ngon, nhất là cá nục: nục vọng và nục gai. Nước mắm Gò Bồi nổi tiếng thơm ngon vì được chế biến bằng cá nục Thị Nại..
Đầm Thị Nại là nơi đã từng diễn ra nhiều trận chiến đấu oanh liệt của dân tộc Chăm chống giặc Nguyên xâm lược; nhiều trận ác chiến giữa nghĩa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn. Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1965, đội quân đấu tranh chính trị của tỉnh đã từng đi thuyền vượt đầm Thị Nại dưới làn đạn của máy bay trực thăng và bo bo Mỹ, nhập thị Quy Nhơn, tay khônag, đấu tranh trực diện với địch.
Đầm Thị Nại cùng với bán đảo Phương Mai là một danh thắng.
Đầm Trà Ổ
Đầm Trà Ổ, tục gọi là Bàu Bàng, nay gọi là Đầm Châu Trúc, nằm tại thôn Châu Trúc, xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ.
Bàu Bàng xưa kia là một vịnh nước mặn, ăn thông với biển bằng một dòng chảy đưa nước ra cửa Hà Ra, nơi đã từng có tàu bè qua lại buôn bán tấp nập, triều Nguyễn từng coi đây là một hải tấn, có đặt trạm thu thuế. Về sau, dòng chảy bị bồi lấp để lại dấu vết trên mặt đất một con lạch nhỏ chỉ có nước vào mùa mưa lũ. Nước thủy triều không thể vào đầm, nhưng nhờ nhận được nước nguồn từ núi theo vô số con suối lớn nhỏ chảy vào, nên đầm vẫn thường xuyên đầy nước.
Các khe suối ở các dãy núi ba mặt bắc, tây, nam đều chảy vào đầm, trong đó có suối Đập Đăng ở Phú Nhiêu chảy ra và suối Đập Khê ở phía tây chảy xuống. Nước Đầm Châu Trúc vừa ngọt, vừa lợ. Trong đầm, gần bờ phía tây nổi lên một cù lao nhỏ, cây cối sum sê. Phía nam cù lao, nước sâu, phía bắc cù lao nước cạn hơn.
Diện tích rộng khoảng 1.200 ha, chu vi ước chừng 20 km, Đầm Trà Ổ nằm giữa một cánh đồng bằng phẳng, nằm gọn trong vòng tay các dãy núi thấp bao bọc ba phía bắc, tây và nam.
Vì là đầm nước lợ, không ngọt, không mặn nên nguồn lợi thủy sản ở đây rất dồi dào, phong phú. Nổi tiếng nhất là chình mun, chình bông thịt thơm ngon, đậm đà và rất bổ; cá bống tượng, cá lóc ở đây cũng rất thơm ngon. Chình Châu Trúc được xuất khẩu sang Thái Lan, Hồng Kông, Trung Quốc.
Hiện nay, ven đầm Châu Trúc có 500 hộ dân các xã Mỹ Thắng, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Lợi sinh sống. Năm 2008, đầm Châu Trúc được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Khu Bảo tồn nguồn nước nội địa.
Đập thủy lợi
Tử thời phong kiến đến thời hiện đại, nhân dân Bình Định rất coi trọng công tác thủy lợi, nên đã đắp đập trên các con sông để dùng gàu tát hay dựng bở xe đưa nước vào ruộng. Xưa kia, nhân dân thường đắp đập bổi hay đập đá, như đập Xuân An (Tiên Yên) ở Châu Thành (Phù Cát); Đập Đá (Thạch Yển) ở núi Mò O, thôn Lý Nhơn do nhân dân hai huyện Tuy Viễn và Phù Cát đắp; đập Mỹ Hào ở bến đò trước thành Bình Định; đập Thạnh Hòa ở Tuy Phước; đập Văn Phong (Kiên Mỹ) xưa kia ở thôn Trinh Tường, huyện Tuy Viễn do dân 7 thôn đào đắp.
Đập dâng Sông Lại
Hệ thống Đập dâng Lại Giang được xây dựng năm 1985 trên nhánh sông An Lão, có năng lực tưới tự chảy cho 3.300 ha đất canh tác bắc Hoài Nhơn, trong đó có 2.500 ha lúa.
Đập dâng Tân An-Đập Đá
Hệ thống Đập dâng Tân An-Đập Đá bao gồm nhiều công trình đập dâng xây dựng qua nhiều thời kỳ, nhằm khai thác lưu lượng cơ bản của sông Côn, kết hợp với nguồn nước bổ sung của hồ Núi Một, cung cấp nước tưới ổn định cho trên 13.000 ha lúa của Tuy Phước, một phần Phù Cát, An Nhơn và thành phố Quy Nhơn.
Sông Côn, xưa có tên là sông Tuy Viễn. Đến triều Đồng Khánh (1885-1889), Tuy Viễn chia làm 3 huyện Bình Khê, Tuy Viễn, Tuy Phước thì sông có tên là sông Ba Huyện. Sau bỏ tên huyện Tuy Viễn, lấy đất lập phủ An Nhơn thì sông mang tên sông Côn. Vùng hạ lưu sông Côn từ Kiên Mỹ (Tây Sơn) đến Thị Nại dài khoảng hơn 30 km có trên 30 đập lớn nhỏ, kể cả các chi lưu của sông Côn. Bắc phái sông Côn từ Nghĩa Nhơn chảy theo hướng đông bắc, đến Tân Kiều chia làm 2 chi, một chi chảy vào nam đến thôn Phương Minh là sông Thạch Yển; chi thứ 2 chảy về phía bắc, đến thôn Thuận Chánh là sông Gò Găng. Sông Thạch Yển xưa gọi là sông Bàng Châu, trên sông có đập bổi. Năm Bính Thìn (1916), triều Khải Định, Hội Bảo nông Bình Định đứng ra vận động quyên góp xây đập bằng đá và xi măng thay đập bổi, nên gọi là Đập Đá. Đây là đập xây bằng xi măng đầu tiên ở Miền Trung. Hiện nay, Đập Đá vẫn còn và được tu bổ kiên cố hơn.
Đập dâng Văn Phong
Hồ chứa nước Định Bình và Hợp phần Khu tưới Văn Phong là công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Bình Định. Hợp phần Khu tưới Văn phong bao gồm Đập dâng Văn Phong và 4 hệ thống kênh tưới nội đồng dài 330 km.
Đập dâng Văn Phong khởi công xây dụng tháng 3.2009. Đập dài 542,20 mét, cao 30 mét. Đập được xây dựng trên sông Côn cách hồ chứa nước Định Bình 34 km về phía hạ lưu, thuộc địa phận xã Bình Tường (Tây Sơn). Khu tưới Văn Phong có công trình kênh mương nội đồng gồm 4 hệ thống kênh tưới đi qua địa bàn các huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước, Quy Nhơn. Trong đó Hệ thống kênh tưới Văn Phong dẫn nước tự chảy cho khu tưới Văn Phong gồm 10,815 ha đất canh tác của các xã Bình Tường, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Vinh (Tây Sơn), Nhơn Mỹ (An Nhơn), Cát Hiệp, Cát Trinh, Cát Tường (Phù Cát); Hệ thống kênh tưới Vĩnh Thạnh lấy nước từ hồ chứa nước Định Bình qua cống Vĩnh Thạnh tưới cho 1.017 ha đất canh tác thuộc các xã Vĩnh Hảo, Vĩnh Quang, Vĩnh Hòa (Vĩnh Thạnh) và Tây Thuận (Tây Sơn); Hệ thống kênh tưới Vĩnh Hiệp lấy nước từ hồ Định Bình qua cống Vĩnh Hiệp, tưới cho 400 ha đất canh tác thuộc 2 xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Thịnh (Vĩnh Thạnh); Hệ thống kênh tưới Hà Thanh gồm trạm bơm và hệ thống lấy nước từ dòng chảy cơ bản của sông Côn và nguồn nước điều tiết từ hồ Định Binh để tưới tự chảy cho 313 ha đất canh tác của các xã Nhơn Bình, Nhơn Phú (Quy Nhơn).
Hệ thống Khu tưới Văn Phong tưới cho 12.545 ha; cấp nước sinh hoạt cho người và gia súc; cấp nước cho sản xuất công nghiệp, kết hợp cải tạo môi trường sinh thái; cấp nước ổn định tưới cho diện tích canh tác đã có kênh dẫn là 15.515 ha, bao gồm khu tưới Tân An-Đập Đá: 14.020 ha, khu tưới Hà Thanh: 1.495 ha.
Hoàn thành và đưa vào khai thác, hợp phần Khu tưới Văn Phong sẽ làm tăng diện tích tưới chủ động của tỉnh hện nay từ 62% lên khoảng 85%.
Đèo dốc
Vì là tỉnh núi non trùng điệp nên Bình Định có nhiều đèo dốc hiểm trở như đèo An Khê, đèo Bình Đê, đèo Bồ Bồ, đèo Cù Mông, đèo Màng Lăng, đèo Nhông, đèo Ô Phi, đềo Phủ Cũ, đèo Tố Mọ...
Đèo An Khê
Đèo An Khê mở lối giao thông giữa Bình Định và vùng Tây Nguyên. Xưa kia Đèo An Khê gọi là Đèo Vĩnh Viễn.
Đèo cao khoảng 740m so với mặt nước biển, dài hơn 19 km, chạy từ phía tây nam huyện Tây Sơn lên thị xã An Khê.
Xưa kia, đường đèo An Khê rất hiểm trở. Dọc đèo, có nhiều dốc ngược, đá lởm chởm; có khúc phải đi chàng hảng mới khỏi té, nơi nầy tục gọi là dốc Chàng Hảng. Dưới dốc Chàng Hảng về phía đông là một cái nghẹo có một cây khế rất sai, gọi là nghẹo Cây Khế. Cách nghẹo Cây Khế một quãng, có 2 cây cổ thụ gọi là Cây Ké và Cây Cầy. Tương truyền, tại nghẹo Cây Khế, Nguyễn Nhạc cầm đầu nghĩa quân Tây Sơn đã chém một con rắn to đang nằm cản đường, lấy máu tế cờ tại nơi gần Cây Ké và Cây Cầy. (Cây Ké đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm đốn lấy gỗ). Đèo An Khê cũng là nơi chứng kiến oai phong của chiến sĩ Cần Vương Tăng Bạt Hổ, khiến con hổ cản đường phải sợ và trốn chạy vào rừng. Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đèo An Khê đã chứng kiến nhiều chiến công oanh liệt của quân dân ta đánh thắng các cuộc hành quân quy mô lớn của quân đội Pháp và quân Mỹ-ngụy.
Đèo Bình Đê
Núi Thạch Tân là ranh giới thiên nhiên giữa hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Đèo Bình Đê chạy trên quốc lộ IA, mở lối giao thông giữa hai tỉnh. Đèo Bình Đê trước kia gọi là đèo Thạch Tân, tục gọi đèo Bến Đá. Trên đường đèo xưa kia có một trạm kiểm soát mang tên trạm Thạch Tân, đến năm Minh Mạng thứ 3, 1822, đổi tên thành trạm Bình Đê, nhân đó, người ta lấy tên trạm làm tên đèo.
Đèo Bình Đê đã chứng kiến những chiến công oanh liệt của nghĩa quân Cần Vương Bình Định chống lại quân của tên tay sai Nguyễn Thân.
Đèo Bồ Bồ
Đèo Bồ Bồ nằm giữa 2 ngọn núi Nước Đỏ và Bạc Má, mở đường giao thông giữa Tiên Thuận ở phía Tây và Thuận Ninh ở phía đông, đều thuộc xã Bình Phú, huyện Binh Khê (Tây Sơn). Đèo đã dài lại dốc, khiến người đi bộ lên đến đỉnh đèo thường bị chóng mặt, nên mới có tên gọi như vậy.
Đèo Bồ Bồ là Di tích Chiến thắng giặc Pháp xâm lược thời kháng chiến chống Pháp (Xem vần D, mục Di tích Chiến thăng Bồ Bồ)
Đèo Cù Mông
Dãy núi Dương An là bức thành hoành tráng ngăn chia tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên. Đèo Cù Mông nằm trên quốc lộ IA mở lối giao thông giữa hai tỉnh. Đèo nằm gần biển, tuy không dốc như đèo An Khê, nhưng dài và quanh co khó đi.
Đèo Cù Mông là nơi diễn ra nhiều trận quyết chiến giữa nghĩa quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy và quân chúa Nguyễn (1800), lúc thành Hoàng Đế bị Võ Tánh chiếm đóng.
Đèo Kim Giao
Đèo này nằm giữa Hòn Cao và Hòn Hóc Mít (nằm phía bắc Hòn Cao, sát mé biển) nối liền thôn Kim Giao với thôn Lộ Diêu (thuộc xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn).
Đèo Lộ Diêu
Đèo Lộ Diêu nối liền thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn với thôn Phù Thứ, huyện Phù Mỹ.
Đèo Màng Lăng
Núi Màng Lăng làm ranh giới giữa hai huyện Hoài Ân và Phù Mỹ. Mở lối giao thông giữa hai huyện nầy là đèo Màng Lăng dài khoảng 6 km và dốc. Đèo chạy từ Trung Hội (Mỹ Trinh, Phù Mỹ) đến Thạch Khê (Ân Tường, Hoài Ân). Tại chân đèo, phía Thạch Khê có một ngôi chùa cổ. Tương truyền, xưa kia tại đèo Màng Lăng có rất nhiều cọp nên khách bộ hành không dám qua đèo một mình mà phải đi đông người và có vị sư ở chùa gõ mõ, tụng kinh dẫn đường.
Đèo Nhông
Đèo Nhông, tên chữ là Hải Lương, nằm trên quốc lộ IA, thuộc địa phận 2 xã Mỹ Trinh và Mỹ Phong. Đèo dài khoảng 9 km, nhưng từ dốc Mù U ở phía bắc đến dốc Me ở phía nam chỉ dài hơn 6 km. Đây là một con đèo hiểm trở.
Thời kháng chiến chống Mỹ, ta đã mở đường giao bưu qua Đèo Nhông để giao thông, liên lạc từ các vùng căn cứ phía tây xuống các vùng nông thôn đồng bằng phía đông, đi qua một số vùng địch kiểm sóat.
Đèo Nhông là Di tích Chiến thắng oanh liệt tháng 2.1965 của quân dân Bình Định.
Đèo Ô Phi
Đèo Ô Phi chạy từ Phú Nhiêu (xã Mỹ Trinh) xuống Chánh Trực (xã Mỹ Thọ, Phù Mỹ), trong kháng chiến chống Mỹ là con đường giao thông liên lạc của các lực lượng cách mạng.
Đèo Phú Quý
Đèo Phú Quý chạy tư quốc lộ 19 đến Dương Hội, xã Phước Long, huyện Tuy Phước. Dưới chân đèo có một cai hố gọi là Hố Giang.
Đèo Phủ Cũ
Đèo Phủ Cũ nằm trên quốc lộ IA thuộc địa phận xã Hoài Đức, huyện Hoài Nhơn. Gọi là đèo Phủ Cũ, vì nơi đây xưa kia là lỵ sở của phủ Hoài Nhơn, đóng ở Lại Khánh trên dãy đồi ở gần đèo, hiện vẫn còn nền cũ. Dưới chân đèo về phía nam có dốc Tam Tượng xưa kia nổi tiếng về chè “Ai đi Tam Tượng hái chè, Bỏ công ớt chín sau hè chim ăn”.
Đèo Son
Đèo Son nằm trong nội thị Quy Nhơn, thuộc địa bàn phường Quang Trung. Thời kháng chiến chống Mỹ, Đèo Son là căn cứ hậu cần về vũ khí, đạn dược, xăng dầu của quân đội Mỹ-ngụy, đã bị quân dân ta tấn công dữ dội nhiều lần, đốt cháy hàng chục triệu lít xăng dầu.
Đèo Tố Mọ
Đèo Tố Mọ, còn gọi là Đèo Lớn nằm trên địa bàn xã Cát Tiến (Phù Cát) chạy từ thôn Chánh Hùng vào phía nam đến các thôn Mỹ Thuận, Mỹ Long, Chánh Mỹ.
Đèo Tố Mọ cũng như Đèo Nhỏ (ở thôn Phú Dõng) và đèo Đá Dăm ở thôn Thanh Hỉ có nhiều đá dăm mọc lởm chởm nên trong dân gian có câu “Anh về em cũng muốn theo, Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm ”. Nay con đường ven biển Nhơn Hội-Tam Quan được mở, nhân dân Bình Định không còn khổ sở vì cảnh “ ba đèo, 4 động “ như trước đây.
Đèo Vạn Tuế
Đèo Vạn Tuế đi từ phía đông Đồng Hào (huyện Tây Sơn) lên Trạm Gò, Cửu An ở phía tây.
Đền thờ
Trên địa bàn tỉnh Bình Định có nhiều đền thờ, điện thờ các vị có công với nước, với dân, trong đó đền thờ Đào Duy Từ, điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt đã được công nhận Di tích quốc gia đặc biệt.
Đền thờ Đào Duy Từ
Đền thờ Đào Duy Từ nằm tại xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn là Di tích lịch sử quốc gia. (Xem vần D, tiểu mục Di tích Đền thờ Đào Duy Từ).
Đền thờ Uy Minh Vương
Đền thờ Uy Minh Vương-Lý Nhật Quang nằm trên địa phận khu vực Hải Minh, phường Hải Cảng, thành phố Quy Nhơn.
Vào đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), vương quốc Chămpa bị các bộ lạc phản loạn, vua Chăm sai sứ cầu cứu nhà Lý. Vua Lý sai Thái tử Lý Nhật Quang-Uy Minh Vương đem quân vào Thị Nại đóng dưới chân núi Phương Mai ngày nay. Nghe uy đức Thái tử nhà Lý, các bộ lạc khiếp sợ, xin lui binh không gây loạn nữa. Ghi nhớ công ơn của Uy Minh Vương đã đem lại thái bình cho vương quốc mình, người Chăm đã cho xây đền thờ tại núi Phương Mai, về sau gọi là Đình Tam Tòa. Hiện nay ngôi đình bị đổ sập, chỉ còn lại dấu tích nền, cỗng tam quan.
Địa hình
Tỉnh Bình định nằm ở rìa phía đông cao nguyên Kon Tum, địa hình nghiêng từ tây sang đông, trong đó, đặc trưng là địa hình núi-cao nguyên và địa hình ven biển.
Địa hình núi-cao nguyên chiếm trên 2/3 diện tích rự nhiên toàn tỉnh. Cấu trúc địa chất, địa hình vùng nầy tạo nên sự hùng vĩ về cảnh quan địa lý và chứa đựng nhiều tiềm năng trong lòng đất, đồng thời cũng là tác nhân quan trọng gây nên sự đột biến về khí hậu, thời tiết.
Địa hình ven biển có 2 dạng: - Từ Quy Nhơn đến giáp Sông Cầu thuộc dạng bờ biển tích tụ-mài mòn đang bị san bằng; - Từ Quy Nhơn đến giáp Sa Huỳnh thuộc dạng bờ biển tích tụ-mài mòn bằng phẳng đã bị san bằng.
Địa hình thềm lục địa, ngoài dải hẹp ven bờ có độ dốc nhỏ, phần lớn còn lại có độ dốc khá lớn và có nhiều nếp gấp. Trong phạm vi từ bờ biển ra đến độ sâu 500 mét, độ dốc đáy biển nhỏ và biến đổi chậm; khu vực từ độ sâu 500 mét đến 2.000 mét có độ dốc lớn nhất trong vùng thềm lục địa. Địa hình thềm lục địa là khu vực chứa đựng nhiều tiềm năng khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt.
Trầm tích mặt khu vực thềm lục địa Bình Định, tại khu vực sát bờ biển Quy Nhơn, vật chất trầm tích mặt chủ yếu là cát chứa bùn sét, ngoại trừ vùng sát bán đảo Phương Mai có một khu vực nhỏ với trầm tích đáy là sỏi sạn; từ bên ngoài Quy Nhơn ra đến Tam Quan, trầm tích mặt, hầu hết là cát.
Đình làng
Thời phong kiến, tỉnh Bình Định không như các tỉnh Miền Bắc, mỗi làng xây một ngôi đình để thờ Thành Hoàng, mà năm, ba làng xây chung một ngôi đình. Do chiến tranh liên miên, thời chúa Nguyễn-Tây Sơn, thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nên hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Định chỉ còn một vài đình làng như đình làng Vĩnh Thạnh (Tuy Phước), đình làng Cẩm Thượng (Quy Nhơn), đình làng An Thường (Hoài Ân) mới xây lại.