T
Thành cổ
Trên địa bàn tỉnh Bình Định, xưa kia có nhiều thành cổ nổi tiếng, như thành Đồ Bàn của vương quốc Chămpa, thành Hoàng Đế của nhà Tây Sơn, thành Bình Định dưới triều Nguyễn.
Thành Bình Định
Năm 1799, sau khi đánh chiếm thành Hoàng Đế (thời Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn gọi là thành Quy Nhơn), Nguyễn Ánh đổi tên phủ Quy Nhơn thành dinh Bình Định, thủ phủ đặt tại thành Đồ Bàn. Đến đời Gia Long thứ 12, năm 1814 thủ phủ Bình Định dời vào phía nam và thành Đồ Bàn bị triệt phá để lấy vật liệu xây thành mới mang tên thành Bình Định.
Thành Bình Định nằm trên địa phận hai thôn An Ngãi và Liêm Trực thuộc thị xã An Nhơn. Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Thành tỉnh Bình Định, chu vi 603 trượng, 8 thước, cao 1 trượng, 1 thước, ở địa phận hai thôn Kim Châu và An Nghĩa, huyện Tuy Viễn...”…”Địa thế của thành rất tốt: dựa lưng vào núi Mò O ở mặt bắc, mặt hướng về bình phong Triều Sơn, xung quanh có các nhánh sông Côn tạo cho thành cái thế “tứ thủy triều quy“ (bốn mặt có nước về chầu), người xưa cho là đắc địa”.
Tường thành xây bằng đá ong, có viên nặng phải 3-4 người khiêng, vôi vữa truyền thống làm bằng các loại nhựa mật cây cối. Tường cao độ 5 mét, dày gần 1 mét, bên trong đổ đất dày thêm khoảng 10 mét, cao ngang mặt thành.
Thành có 4 mặt: mặt tiền hướng nam có cửa Tiền, mặt đông có cửa Đông, mặt tây có cửa Tây, mặt hậu hướng bắc có cửa Hậu, nhưng sau đó bị lấp kín, chỉ còn 3 cửa.
Cửa thành xây bằng gạch đất nung hình chữ nhật dài 3 tấc, rộng 1,5 tấc. Vòm cửa hình bán nguyệt. Lòng cửa cao khoảng 5 mét, rộng khoảng 4 mét, có hai cánh cửa bằng gỗ lim, dưới mỗi cánh có bánh xe gỗ để mở đóng cho nhẹ tay. Bên trong mỗi cánh có đính con bọ chắc chắn, hình chữ L làm điểm tựa cho cây gỗ làm then khóa. Phía bên trên cỗng thành, ngang với mặt thành, mỗi cửa có một lầu dùng làm vọng gác. Lầu hình vuông, diện tích nền độ 16 mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Lầu dựng bàng gỗ, có 4 cột tròn, mỗi cột đường kính 4 tấc, mái lầu lợp ngói âm dương.
Chu vi thành khoảng 4 km, diện tích thành khoảng 1 triệu mét vuông. Bên trong thành có hành cung và dinh thự, tòa ngang, dãy dọc nguy nga, đồ sộ.
Hành cung dài 22 mét, rộng 11 mét. Có 60 cây cột nhất, cột nhì, cột mái, cột chái. Hàng cột nhất có 16 cây, mỗi cây cao khoảng 7 mét, đường kính 4 tấc; kèo lưỡng đoạn có chạm trỗ công phu; cột kê trên đá núi xanh hình vuông, mỗi bề 5 tấc, có khắc hoa văn. Nhà xây 3 vách, nền lát gạch Bát Tàng, mái lợp ngói âm dương, bên trong lợp váng. Nóc hành cung đắp biểu tượng lưỡng long tranh châu, hai con rồng quay mặt vào nhau, giữa là hạt minh châu tròn như quả cầu lửa. Giữa hành cung có ngai gỗ khắc chạm kiểu cách, đặt trên một bục gỗ vuông mỗi cạnh 3 mét, cao 5 tấc, phủ tấm nhung xanh.
Ngoài hành cung, có dinh thự của các quan Tổng đốc, Bố chánh, Án sát; mặt trước là nơi làm việc, mặt sau là nơi ở của các quan và gia đình. Dinh thự văn quan và dinh thự võ quan nằm cách xa nhau. Các dinh thự được ngăn cách bỡi các bờ thành đá, có lính giản canh gác. Nhà làm việc của các quan thơ lại, quan phòng thành nằm sau dinh thự, có hậu vệ binh, có lính gác cỗng. Tư thất của các vị quan nầy nằm ở phía sau nữa, mé đằng tây. Trại lính nằm phía sau, có nơi làm việc của Chánh, Phó quản, Cai đội. Phía đông nam thành là nhà Dây thép. Cuối góc nam là nhà làm việc của quan Thông tằm, là bãi đất rộng trồng dâu và các dãy nhà nuôi tằm. Phía trong thành Bắc là nhà lao rộng 6 mét, dài 12 nét, chia nhiều phòng, có xích xiềng bằng sắt và gông cùm bằng gỗ. Quản thủ nhà lao là Lãnh binh, dưới có Cai ngục.
Các con đường nội thành liên thông với nhau, mỗi con đường rộng khoảng 3 mét, gồm con đường thẳng nối hành cung với các dinh thự theo hướng tây nam và nhiều con dường trước và sau hành cung theo hướng đông tây.
Ngoại thành có 4 con đường chính: đường phía đông gọi là đường Cửa Đông, sau gọi là đường Lò Rèn; đường phía tây gọi là đường Kim Đông (đông Kim Châu), đường phía bắc gọi là đường Gò Lù, đường phía nam gọi là đường Cửa Tiền. Mỗi con đường, tính cả lề, rộng khoảng 10 mét.
Ngoài thành có hồ sen rộng chừng 20 mét vuông, sâu 2-3 mét, vừa tạo cảnh dẹp, vừa tạo thế hào lũy bảo vệ thành. Bên ngoài thành, nằm cách xa cửa Tiền có xây một ngôi nhà dài 12 mét, rộng 5 mét, trước nhà có bãi rộng, vùa làm nơi tập luyện của quân lính, vừa làm pháp trường thi hành án xử trảm.
Quanh thành có các đền miếu. Phía tây là đàn Xã Tắc nằm tại thôn Hòa Cư, gồm tầng một cao 2 thước, 3 tấc, vuông 4 trượng, 2 thước, 3 tấc; tầng hai cao 1 thước, 3 tấc, vuông 10 trượng, 4 thước, 5 tấc. Đàn được dựng vào năm Minh Mạng thứ 13 (1833). Phía tây là đàn Tiên Nông dựng năm Minh Mạng 14 và đàn Sơn Xuyên dựng năm Minh Mạng thứ 15;s cả hai đàn nầy đều ở thôn Liêm Trực. Phía bắc thành có Văn Miếu với đền Khải Thánh, miếu Hội Đồng, miếu Thành Hoàng, đền Chiêu Trung đều được dựng đặt vào đầu thế kỷ XIX. Đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), Trường Thi Hương Bình Định được lập ra tại thôn Hòa Nghi. Khúc sông nằm bên kia Trường Thi được gọi là sông Trường Thi, có bến Trường Thi, nhà thơ Yến Lan gọi là bến My Lăng.
Thành Bình Định, phủ thành Quy Nhơn trước đó, là nơi đã từng diễn ra những sự kiện lịch sử oanh liệt có, bi tráng có của nhân dân Bình Định. Năm 1799, xảy ra cuộc quyết chiến giữa quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy và quân chúa Nguyễn do Võ Tánh và Ngô Tùng Chu cầm đầu. Bị vây hãm ngặt nghèo, Ngô Tùng Chu phải uống thuốc độc tự vẫn, Võ Tánh đành hỏa thiêu. Trong phong trào Cần Vương, thành Bình Định là nơi diễn ra cuộc chiến một mất một còn giữa nghĩa quân của Hồng Lô Thiếu Tự Khanh Đào Doãn Địch và Bùi Điền với quân triều đình, tay sai thực dân Pháp. Trong phong trào chống thuế năm 1908, thành Bình Định đã chứng kiến cuộc quật khởi của hàng vạn đồng bào đi chân đất, cắt tóc ngắn.
Đầu năm 1947, thành Bình Định là nơi diễn ra sự kiện chính trị trọng đại: Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất (20.1.1947).
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi đế quốc Pháp trở lại xâm lược nước ta, thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, nhân dân ta đành phá hoại thành Bình Định vào năm 1949.
Thành Cha
Thành Cha áng ngữ phía nam kinh thành Vijaya (Đồ Bàn) nằm trên địa phận thôn An Thành, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn. Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Thành cũ An Thành gọi là thành Cha ở thôn An Thành, phía đông huyện Tuy Viễn, do người Chăm xây dựng, nay đã đổ nát, dấu cũ vẫn còn”. Thành còn có nhiều tên gọi khác trong dân gian như thành Hời, thành Hồ Cứ, thành Bắc, thành Cừ.
Tuy là một tòa thành nhỏ, nhưng thành Cha giữ vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự. Thành được xây trên một dải đất cao nằm trên bờ nam sông Côn, cách thành Đồ Bàn chừng 5 km về phía bắc. Nằm về phía tây nam, cách thành Cha khoảng 3 km là thành Chà Rầy. Theo các nhà nghiên cứu, thành Cha được xây dựng từ trước thế kỷ XI, nghĩa là xuất hiện sớm hơn thành Đồ Bàn. Thành có cấu trúc khá đặc biệt. Nhìn trên bình đồ, hệ thống thành giống như được liên kết bởi hai tòa thành hình chữ nhật, một lớn, một nhỏ.
Tòa thành lớn nằm về phía đông. Tường thành mặt bắc chạy theo hướng tây-đông, dài 947m, mặt rộng 3-5m, chiều cao hiện còn khoảng 1 mét. Ở vị trí chính giữa tường thành nổi lên một gò đất cao 8 mét, thoải dần về hai phía mặt thành, có tên gọi là gò Cột Cờ. Bức tường phía nam có chiều dài tương tự, nhưng đã bị bào mòn, chỉ còn cao hơn mặt đất một chút. Phần di tích còn rõ nhất là hai bức tường phía đông và phía tây. Tường phía đông chạy theo hướng bắc nam, dài 345 mét, với chiều cao trung bình 4 mét, mặt thành rộng tới 30 mét. Bức tường phía tây có chiều dài và độ cao tương tự, nhưng mặt thành hẹp hơn, khoảng 7-10 mét. Góc tây bắc của tòa thành lớn được vây kín bởi hai đoạn tường thành, một chạy từ gò Cột Cờ xuống phía nam, dài 240 mét và một đoạn vuông góc với nó, chạy sang phía tây, nối với bức tường phía tây của thành lớn, tạo thành một khuôn viên hình chữ nhật. Chính giữa khuôn viên nầy có một gò gạch lớn là dấu tích còn lại của một công trình kiến trúc đã bị sụp đổ.
Thành hình chữ nhật nhỏ hơn nằm kề phía tây bắc thành lớn, có chiều dài 440 mét, chiều rộng 134 mét. Tường phía đông của thành nhỏ trùng với tường phía tây của thành lớn. Hai thành được liên kết với nhau thành một hệ thống.
Vết tích hệ thống hào xung quanh thành Cha còn khá rõ. Đường hào phía nam rộng 35-40 mét, còn tương đối nguyên vẹn. Ở mặt bắc và đông, hào gần như bị lấp, nhưng còn để lại nhiều bàu, đìa, rộc, vùng trũng sâu liên tiếp nhau, chạy dọc theo tường thành.
Trong lòng thành có nhiều gò đống như gò Gạch, gò Cây Me, gò Hời... Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy ở đây không ít những mảnh ngói vỡ, phù điêu trang trí bằng đất nung thể hiện tu sĩ Bàlamôn, hình phụ nữ.
Tháng 11.2015, Trung tâm Nghiên cứu kinh thành thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tổng hợp Bình Định đã tiến hành khai quật khảo cổ học di tích thành Cha.
Thành Chánh Mẫn
Thành Chánh Mẫn nằm địa phận thôn Chánh Mẫn, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát ngày nay, được xây đắp dưới thời Tây Sơn, hiện vẫn còn vết tich. Sách Đại Nam nhất thống chí viết về núi Mò O và thành Tây Sơn như sau: “Núi Mộ Ô ở phía đông huyện, đỉnh núi có hai mũi nhọn như hình giá bút, phía đông có núi Tượng Bì, phía đông nam có núi Tiểu Đại (còn có tên là Cô Sơn), phía tây bắc có thành Tây Sơn dài ước 3,4 trượng, trong thành có hồ rộng hơn 2 trượng, trong có một hồ đá, nhô đầu ra ngoài mặt nước chừng 1 thước, tương truyền do người Chiêm Thành dựng, phía nam có gò đất, lại có sông Cảnh Hàn, phía tây nam có hai tháp Con Gái và Học Trò, nay đều đổ nát...”.
Theo ghi chép trên, thành Tây Sơn, sau nầy được đặt tên là thành Chánh Mẫn, nằm dựa vào núi Tượng Bì ở mặt nam và núi Tiểu Đại (hay Cô Sơn) ở mặt tây. Núi Mộ Ô là núi Mò O nằm trên địa phận hai xã Nhơn Phong và Nhơn Thành, huyện An Nhơn, núi Tượng Bì là núi Choi Voi có hình thù giống một con voi nằm, là một núi đất cao 78 mét và núi Tiểu Đại là núi Mù Cu hay Mồ Côi, là một hòn núi đất thấp, nhỏ, dứng độc lập.
Thành Chánh Mẫn là một bờ thành dài 250 mét được đắp bằng đất có kè đá, chân thành rộng 6 - 8,5 mét, mặt thành rộng trung bình 2,2 mét, chiều cao trung bình 1,5 mét. Thành chạy theo hướng từ tây sang đông, bắt đầu từ đầu Rùa núi đất (Mồ Côi), nối liền với gò Trống Cán. Đoạn thành đầu Rùa núi Mồ Côi dài 20 mét đẫ bị nước chảy làm sụt, đoạn còn lại cho đến gò Trống Cán dài 230 mét còn tương đối nguyên vẹn. Gò Trống Cán, nơi tiếp giáp với đầu đông của bờ thành, có kích thước chỗ dài nhất là 52 mét, chỗ rộng nhất là 45 mét, diện tích khoảng 168 m2, nay đã san bằng làm ruộng lúa. Bờ thành chạy đến đầu gò Trống Cán cũng đã ăn gần sát phía bắc núi Choi Voi (Tượng Bì), chỗ nầy, thành chỉ cách chân núi chừng 53 mét.
Như vậy, lợi dụng núi đất Mồ Côi ở mặt tây và núi Choi Voi ở mặt nam, nghĩa quân Tây Sơn đã cho đắp một đường thành ở phía bắc gần như nối liền hai núi nầy. Vì thế, thành Chánh Mẫn có hình gần giống một tam giác mà đáy là đường thành đắp, còn hai cạnh là núi Mồ Côi và núi Choi Voi. Toàn bộ khu vực trong thành, từ lâu đã biến thành ruộng lúa, dân gian gọi là đồng Thành Trong. Tổng diện tích đồng Thành Trong là 22.778 m2, trong đó có 18.920 m2 là ruộng cấy, còn 33.850 m2 ở giữa khu vực thành là gò rất cao, không cấy lúa được.
Sát chân thành, ở bên ngoài, về phía bắc là dãy ruộng trũng gọi là ruộng Dãy Chùa, chạy dọc bờ thành như một đường hào, chiều rộng trung bình là 330 mét, tổng diện tích hơn 4.000 m2. Phía trên ruộng Dãy Chùa là Gò Đồng, nay gọi là Lò Gạch, diện tích khoảng 21.550 m2. Tại đây, đã phát hiện nhiều gạch tháp và đá ong nằm ở độ sâu khoảng 0,4 mét, đặc biệt có dấu tích móng nhà, được phân chia thành từng khu, mỗi khu rộng 10 mét dài 15 mét, xây bằng gạch tháp, có thể là nền móng các trại lính thời Tây Sơn. Giữa Gò Đồng có một cột đá xanh, hình vuông, có lỗ để cắm cờ.
Đầu phía đông bờ thành, dưới gò Trống Cán, qua một mương nước là Ao Vuông, mỗi cạnh dài 70 mét. Ao Vuông vốn trồng sen, tương truyền do vua Chiêm làm ra. Ao đã bị san lấp từ năm 1986. Giữa ao có trụ đá, sử cũ chép đó là trụ cờ. Khi lấp ao, nhân dân địa phương không cách nào đào được trụ đá lên nên họ đã đập nhỏ để mỗi người lấy một mảnh làm đá mài. Dấu tích đá ong xây ao nay vẫn còn. Có ít nhất 10 lớp đá ong xây từ đáy đến mặt ao.
Dưới Ao Vuông là Bàu Dài. Bàu chạy sát chân núi Choi Voi, qua khu vực Ao Vuông, đổ ra sông Ông Sư là một nhánh sông Côn từ Đập Đá chảy xuống qua núi Mò O ở phía nam và phía đông, rồi chảy qua phía đông bắc núi Mò O, qua Chánh Mẫn, Đại Hữu, Đại Lợi, Đại Hào, đổ vào sông Đại. Sông Đại chảy vào khu vực xã Cát Tiến rồi đổ ra đầm Thị Nại.
Toàn bộ khu vực phía bắc đường thành có tên gọi ngày nay là đồng Thành Ngoài có tổng diện tích 40.800 m2, bao gồm cả ruộng, gò, lò gạch, ruộng Dãy Chùa.
Phía nam thành, cách khoảng 400 mét có một khu gò cao, rộng chừng 100 m2, tục gọi là gò Súng Bắn, nay đã biến thành ruộng lúa.
Thành Chánh Mẫn rõ ràng có tính chất dã chiến. Nghĩa quân Tây Sơn, sau khi đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, các kho Càn Dương, Đạm Thủy, kiểm soát toàn bộ vùng đất phủ Quy Nhơn, đã lợi dụng địa hình, địa thế thuận lợi của khu vực Chánh Mẫn, Đại Hữu (Cát Nhơn, Phù Cát), Nhơn Phong (An Nhơn) để xây thành, đóng quân. Trong quá trình đắp thành, nghĩa quân Tây Sơn đã tận dụng phế tích các di tích cũ của người Chiêm Thành để xây dựng. Tuy là dã chiến, nhưng thành Chánh Mẫn có một vị trí rất quan trọng về quân sự. Từ đây, có thể quan sát nhiều nơi từ xa, có thể theo đường bộ hoặc đường sông đến Tân phủ Càn Dương khoảng 20 km, đến thành Hoàng Đế khoảng 13 km. Thành Chánh Mẫn cùng Tân phủ Càn Dương tạo thành một rào chắn bảo vệ thành Hoàng Đế, đại bản doanh của Bộ Chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn, Kinh đô của Trung ương Hoàng Đế Nguyễn Nhạc. Bản thân thành Chánh Mẫn cũng mang ý nghĩa phòng thủ lợi hại. Phía tây thành có núi Đất cao 45 mét, phía nam thành có núi Choi Voi cao 78 mét, phía đông thành có Gò Trống Cán, Ao Vuông, Bàu Dài, tạo thành nhiều tầng chướng ngại vật ngăn cách phía ngoài thành và trong thành. Xa hơn có sông Ông Sư như một hào sâu che chắn mặt bắc.
Dân gian vùng thành đến nay vẫn còn nhớ những truyền thuyết về người Chiêm Thành ở thành Chánh Mẫn, về anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đến buôn bán trầu, xuống tắm ở Ao Vuông, đến bến đò Ông Sư và đem quân đóng tại đây.
Thành Đồ Bàn
Thành Đồ Bàn xưa kia là kinh đô của vương quốc Chămpa dưới vương triều Vijaya nên có tên là thành Vijaya, được phiên âm thành Chà Bàn, Trà Bàn, Xà Bàn hay Đồ Bàn; cũng còn được gọi là thành Phật Thệ, thành Đại Châu. Hiện nay, tòa thành cổ nầy chỉ còn là phế tích, nằm trên địa phận hai thôn Nam Tân, Bắc Thuận (Nhơn Hậu) và thôn Bả Canh (Đập Đá) thị xã An Nhơn.
Sử sách viết vào cuối thời Lê mô tả thành Đồ Bàn như sau: “Xã Phú Đa xưa có thành gạch gọi là thành Đồ Bàn. Thành hình vuông, mỗi bề dài một dặm. Có 4 cửa. Trong có điện, có tháp. Điện đã bị đổ, tháp còn 12 tòa, tục gọi là tháp Con Gái...”. Sách Đại Nam nhất thống chí thì mô tả như sau: “Thành cũ Chà Bàn ở địa phận thôn Nam Định, Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông bắc huyện Tuy Viễn, xưa là quốc đô của Chiêm Thành, chu vi 30 dặm, trong thành có tháp cổ, có nghê đá, voi đá...”. Đồ Bàn thành ký của Nguyễn Văn Hiển viết: “Thành Đồ Bàn hình vuông, xây bằng gạch, rào bằng gỗ, mở 4 cửa, chu vi hơn 10 dặm...”. Như vậy, các thư tịch cổ đều mô tả thành Đồ Bàn hình vuông, có 4 cửa, xây bằng gạch, duy có điểm khác nhau là chu vi thành. Chu vi 10 dặm như Đồ Bàn thành ký viết là tương đối sát với thực tế di tích.
Thời hoàng kim của Vijaya thì thành Đồ Bàn rất nguy nga, tráng lệ. Theo Việt sử lược, vào năm 1069, sau khi vua Lê Thánh Tông chiếm được thành Phật Thệ đã sai kiểm kê tất cả các nhà trong và ngoài thành, cả thảy có tới hơn 2.560 khu. Sách Hoàng Việt địa dư chí cũng cho biết trong thành có tới 35 tòa tháp. Mặc dù cung điện, đền đài, tháp miếu trong thành đã nhiều phen bị phá hủy vì binh lửa chiến tranh, nhưng đến thế kỷ XVIII, theo Phan Huy Chú viết về phủ Hoài Nhơn thì “Trong phủ có thành Đồ Bàn, là nơi xưa kia vua nước Chiêm ở đó, lộng lẫy, kiên cố, nay dấu cũ hãy còn...”. Cuối thế kỷ XVIII, nghĩa quân Tây Sơn đã tu bổ, đắp thêm, mở rộng thành Đồ Bàn để làm đại bản doanh, sau xây thành Hoàng Đế trên nền cũ thành Đồ Bàn.
Thành Đồ Bàn xưa kia có nhiều tháp, nhưng hiện còn tương đối nguyên vẹn chỉ có một ngọn tháp tên gọi Cánh Tiên.
Thành Hoàng Đế
Thành Hoàng Đế là một di tích quan trọng của phong trào Tây Sơn. Sách Lê Quý dật sự chép rằng: “Nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào lấy đá ong xây dựng thành lũy, mở rộng cung điện...”. Đó là vào năm 1776. Đến năm 1778, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Nhạc cho cải tạo, nâng cấp thành Đồ Bàn và đổi tên là thành Hoàng Đế.
Từ năm 1776 đến 1793, thành Hoàng Đế là đại bản doânh của nghĩa quân Tây Sơn, sau đó là Kinh đô của chính quyền Trung ương Hoàng đế Thái Đức-Nguyễn Nhạc.
Thành có cấu trúc ba lớp: thành ngoại, thành nội và tử cấm thành.
Thành Ngoại có hình dáng gần như hình chữ nhật, nhưng các cạnh uốn lượng không thẳng và các góc cũng không vuông. Tổng chu vi của thành ngoại khoảng 7.400m, nhưng chiều dài của các tường thành không đều nhau. Trong khi cạnh phía bắc dài 2.038m thì cạnh phía nam dài tới 2.118m; tường phía đông và phía tây cũng chênh lệch về độ dài. Tường phía đông tương đối thẳng, dài 1.564m, còn tường phía tây dài khoảng 1.610m, nhưng lại uốn lượn, hơi lệch về phía tây nam, tạo thành một góc lượn tròn.
Thành mở 5 cửa. Ngoài 3 cửa Bắc, Đông, Tây, mặt phía nam có 2 cửa: cửa Vệ hay còn gọi là cửa Nam và cửa Tân Khai. Cả hai cửa nầy đều nằm trên địa phận thôn Nam Tân. Dấu tích của 5 cửa đến nay vẫn còn. Thành nhìn về hướng nam, nên cửa Vệ (cửa Nam) còn có tên là cửa Tiền; cửa Đông là cửa Tả, cửa Tây là cửa Hữu và cửa Bắc là cửa Hậu.
Mặt ngoài và trong Thành Ngoại xây bằng đá ong. Ở mặt ngoài, lớp đá ong tạo thành mặt phẳng dốc 70 độ, phía dưới chân dày khoảng 3m, thu nhỏ dần lên phía trên mặt thành. Lớp đá ong bó mặt trong được xây thành từng bậc giật cấp làm cho tường thành choãi rộng ở phía chân và thu hẹp lại trên mặt. Giữa hai lớp đá ong, tường thành được nhồi bằng đất. Với kỹ thuật xây đắp như vậy, vòng thành ngoài khá kiên cố. Chân thành có chiều rộng hơn 10m, mặt thành rộng 4m, tường cao trên 6m. Trong các thành cổ ở nước ta, hiếm có tòa thành nào quy mô tường thành lớn như vậy.
Thành Nội, còn gọi là Hoàng Thành được xây thẳng hướng với cửa Nam, nằm lệch về góc tây nam Thành Ngoại. Vòng thành ngoài hầu như đã bị phá hoại hoàn toàn. Thành có cấu trúc hình chữ nhật, gióng đúng theo 4 hướng đông, bắc, tây, nam, với tổng chu vi 1.600m (một cạnh dài 430m, còn cạnh kia dài 370m). Thành Nội cũng được xây như Thành Ngoại, đắp đất, bó đá ong; chân thành rộng đến 7m.
Thành Nội chỉ mở 3 cửa. Cửa Tiền thẳng hướng với cửa Vệ, cách Thành Ngoại 180m. Hai bên cửa có đắp hai ụ đất hình chữ nhật, đối xứng nhau, đắp nhô hẳn ra ngoài; kích thước mỗi ụ 14x20m. Cửa Đông và cửa Tây trổ vào chính giữa mỗi cạnh thành, hiện đã bị san phẳng. Cạnh phía bắc không trổ cửa, nhưng ở giữa có một đoạn dài 75m xây thụt vào trong chừng 7m so với mặt tường, như một dạng bình phong yểm hậu.
Tử Cấm Thành còn gọi là Tử Thành là vòng thành trong cùng, có cấu trúc hình chữ nhật, chu vi 600m, một cạnh dài 126m. còn cạnh kia là 174m. Tường Tử Thành xây thẳng, mặt rộng khoảng 1,5m, chiều cao trung bình là 1,8m. Riêng góc đông nam cao hơn 3m. Tử Thành chỉ mở một cửa phía nam với các tên gọi Nam Lâu, Tam Quan và Quyển Bồng.
Thành Hoàng Đế được bố phòng rất chắc chắn. Ngoài các vòng tường thành kiên cố, thành còn được phòng vệ bằng cả một hệ thống sông ngòi, núi đồi, gò tự nhiên và nhân tạo bao bọc xung quanh. Sông Đập Đá tách ra ở Thiết Trụ (xã Nhơn Mỹ) rồi hợp lại ở Lý Tây (xã Nhơn Thành) bao bọc thành Hoàng Đế như những chiến hào tự nhiên, đồng thời là con đường thủy thuận lợi. Phía tây bắc thành còn có dấu vết một bến thuyền xưa ở khu vực Bến Gỗ. Từ đây, thuyền có thể theo dòng sông Quai Vạc trở lại sông Côn, rồi ngược lên Thượng đạo, hoặc xuôi theo sông Đập Đá, sông Đại An, về phía đông ra cửa Thị Nại. Cùng với tuyến sông, hào, các gò núi quanh thành cũng đóng vai trò quan trọng trong phòng thủ. Phía nam thành có gò Vân Sơn, còn gọi là Gò Tập (là nơi luyện tập của nghĩa quân Tây Sơn). Xa hơn Gò Tập một chút là núi Long Cốt, áng ngữ phía trước cửa thành. Thành còn có cả một hệ thống phòng vệ từ xa trên cả hai mặt thủy và bộ. Đó là các thành lũy dã chiến trên núi Càn Dương, Mò O, Hàm Long, Kỳ Sơn...các đồn bảo ở cửa Đề Gi, Nha Phiên, Thị Nại.
So với những công trình kiến trúc mà nhà Tây Sơn đã tạo dựng như thành Phú Xuân (Huế), Phượng Hoàng Trung Đô (Nghệ An) và các thành lũy khác trên đất Bình Định thì thành Hoàng Đế có quy mô lớn nhất.
Là đại bản doanh, là kinh đô của triều đình Nguyễn Nhạc, thành Hoàng Đế là điểm xuất phát của nghĩa quân Tây Sơn đánh Nam, dẹp Bắc. Chính tại nơi đây, đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định lập nên chiến công lừng lẫy, đánh tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm tại Rạch Gầm-Xoài Mút; năm 1786, Nguyễn Huệ lại đem quân tiến ra Phú Xuân, đánh tan quân Trịnh và sau đó, tiến thẳng ra Thăng Long lật đổ ách thống trị gần 300 năm của tập đoàn chúa Trịnh, tạo tiền đề cho việc thống nhất đất nước. Từ năm 1793 cho đến khi nhà Tây Sơn sụp đổ, thành Hoàng Đế (thời vua Cảnh Thinh đổi tên là thành Quy Nhơn) là nơi diễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt giữa quân đội nhà Tây Sơn và quân của Nguyễn Ánh và chứng kiến những sự kiện bi tráng trong những năm tháng cuối cùng của triều Tây Sơn.
Thành Thị Nại
Thành Thị Nại là di tích gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của vương quốc Chămpa đã được nhiều sách sử cổ của Trung Quốc nói đến khi viêt về Chiêm Thành cảng: ”Cửa phía bắc liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ, thông với Đại Châu của nước ấy, phía đông nam có núi ngăn, phía tây có Thành Gỗ ”. Cửa cảng nói trên có thể là cửa Cách Thử hay Nha Phiên hải Tấn, một hải cảng quan trọng của đất Đại Châu bị lấp vào khoảng thế kỷ XIX. Núi ngăn phía đông nam là dãy Triều Châu, còn Thành Gỗ là thành Thị Nại.
Vào thế kỷ XIII, thành Thị Nại đã từng là nơi diễn ra những trận chiến đấu ác liệt của quân Chămpa, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Indravarman (Chế Mân), chống lại cuộc xâm lược trên quy mô lớn của quân Nguyên-Mông.. Nhưng vì thế giặc rất mạnh, quân Chămpa buộc phải rút lui. Thành Thị Nại lọt vào tay quân địch. Về sau, nhờ có sự giúp đỡ của Đại Việt, và nhờ quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thư hai (năm 1285), chém đầu Toa Đô trong trận Tây Kết, nên vương quốc Chămpa được hoàn toàn giải phóng.
Thành Thị Nại nằm trên địa phận các thôn Bình Lâm, Bình Nga Đông, Bình Nga Tây, Binh Trung của xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Trong thế kỷ XX, đã có nhiều nhà khảo cổ học, đặc biệt là chuyên gia Chămpa học nổi tiếng, J.Y.Claeys, người Pháp, dày công đi tìm di tích tòa thành nầy mà vẫn chưa đem lại kết quả.
Nhưng may mắn thay, trong mấy năm gần đây, do công việc đào đắp xây dựng của nhân dân, tại địa phận thôn Bình Lâm đã xuất lộ nhiều đoạn tường của tòa thành cổ. Di tích còn lại cho thấy, thành được xây dựng trên một doi đất cao, nằm kẹp giữa hai phân lưu phía hạ nguồn sông Côn là sông Cầu Đun và sông Gò Tháp.
Thành Thị Nại cấu trúc hình chữ nhật, chiều dài chạy theo hướng đông tây khoảng 11.300m, chiều rộng hơn 600m. Dấu tích thành còn rõ nhất ở mặt bắc. Tại đây, tường thành chạy dọc theo sông Gò Tháp, dựa vào sông làm hào chắn tự nhiên. Vết tích còn lại là một dải gạch đổ dài hơn 200m, trên đó vẫn còn một đoạn tường khá nguyên vẹn, chỉ dài gần 4m, cao 1,2m. Phần ngoài tường thành được bọc bằng gạch có kích thước lớn: 0,36x0,20x0,07, xây khít vào nhau, giật cấp từ dưới lên giống như kỹ thuật xây tháp. Bề mặt phía trên tường gạch rộng 0,8m. Bên trong phần gạch ốp, tường được đắp lè rất chắc bằng đất trộn gạch vụn. Tường thành phía nam chạy dọc theo sông Cầu Đun. Dấu vết còn lại là một dải đất cao có bề mặt rộng tới 15-20m. Cấu tạo bên trong của dải đất nầy giống như phần đất đắp phía trong của bức tường thành phía bắc.
Vết tích mặt thành phía đông là một dải đất cao với hàng loạt các gò đống nối tiếp nhau, trên đó, gạch xây dựng còn vương vãi ngổn ngang. Phía bên ngoài tường thành còn rõ dấu tích một con hào phòng thủ rộng đến 330m, nối thông hai con sông Gò Tháp và Cầu Đun. Rất có khả năng vào thời kỳ chống quân Nguyên, người Champa đã gia cố thành bằng một tường rào gỗ nên có tên là Thành Gỗ.
Tường thành phía tây chỉ còn lại dấu vết trên một dải đất trộn lẫn gạch vỡ lèn cứng, rộng khoảng 4-5m.
Đất trong thành hiện nay đã biến thành ruộng. Khi canh tác, nhân dân thường gặp các vỉa gạch Chăm và mảnh ngói vỡ. Đặc biệt, rải rác ở khắp nơi còn có nhiều gò, đống như gò Nhang, gò Miếu, gò Đôi, gò Hời. Có thể đó là nền móng các công trình kiến trúc xưa ở trong thành.
Tháp Chàm
Tháp là một loại hình kiến trúc phổ biến trong văn hóa Chămpa. Tiếng Chăm gọi công trình kiến trúc nầy là Kalan (đền thờ), theo ý nghĩa của từ, có chức năng chủ yếu là phục vụ đời sống tâm linh và các lễ nghi tôn giáo.
Trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện còn hàng chục di tích và phế tích tháp Champa, trong đó có nhiều cụm tháp hoành tráng, như Tháp Bánh Ít, Tháp Dương Long…
Tháp Bánh It
Tháp Bánh It nằm trên một quả đồi không lớn, cao chừng hơn 100m, nằm trên địa phận thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Gọi là tháp Bánh It, vì tháp có 4 ngọn đứng gần nhau, một lớn ở trên cao và 3 nhỏ ở dưới thấp, trông xa giống như một mâm bánh ít đã bóc vỏ. Người Pháp đặt tên quần thể kiến trúc nầy là Tháp Bạc (Tour d’ Argent). Tháp còn được gọi là Đại Lộc là địa danh nơi tháp tọa lạc..
Với 4 ngọn tháp (căn cứ dấu tích còn lại, có thể nhiều hơn), Bánh It là quần thể nhiều tháp nhất hiện còn trên đất Bình Định.
Tháp cỗng nằm phía đông là cửa chính dẫn vào quần thể tháp Bánh It. Tháp không lớn, cao chừng 13m, xây trên bình đồ hình vuông, mỗi chiều khoảng 7m. Tháp mở hai cửa thông nhau theo hướng đông tây, cùng nằm trên một trục thẳng với cửa tháp chính trên đỉnh đồi. Vòm cửa giống như mũi lao có nhiều lớp liên tiếp vút lên phía trên. Hai mặt còn lại của tháp là hai cửa giả, không thông với lòng tháp, nhưng vòm được tạo dáng giống như cửa thật. Mặc dù đã bị hư hại nhiều, tháp cỗng trông còn khá vững chãi. Quanh thân tháp có các trụ đá ốp để trơn, không trang trí. Diềm mái tháp hơi nhô ra nâng toàn bộ 3 tầng mái trang trí đơn giản nhưng khỏe khắn. Qua tháp cổng là nền sân thứ nhất. Tại đây còn thấy khá rõ dấu vết tường vòng thành bao quanh khu trung tâm. Tiếp đến là sân thứ hai, đang còn những đống phế tích của một công trình nào đó đã bị sụp đổ.
Tháp chính nằm trên đồi. Tháp cao trên 20m, xây trên bình đồ vuông, mỗi chiều 11m. Trên mọi bộ phận, tháp được trang trí khá đẹp. Phần chuyển tiếp giữa đế và thân tháp là những hàng gạch nhô ra được gọt đẽo công phu, tạo thành những đường cong uốn lượn nhẹ nhàng như cánh hoa xoải xuôi. Thân tháp có 5 cột dọc, rãnh kép, vừa làm cho tường vững vàng, vừa tạo dáng thanh thoát. Trang trí thân tháp tập trung chủ yếu ở phần cửa. Cửa chính mở về phía đông, nhô ra khỏi mặt tường đến 2m. Vòm cửa được tạo dáng hình mũi lao hai lớp, thu nhỏ về phía trên với các hoa văn hình xoắn nối kết nhau. Chính giữa vòm cửa có phù điêu mặt Kala. Cưa chính còn được trang trí bằng một diềm phù điêu khắc tạc hình Ganesa (người đầu voi, thần hạnh phúc và may mắn, con trai của thần Siva và nữ thần Parvati), hình Hanuman (Khỉ thần, con trai của thần Gió Vayu, đã giúp hoàng tử Rama đánh thắng quỷ vương Ravana, cứu được công chúa Sita). Những tượng thần nầy đều được thể hiện trong tư thế đang nhảy múa rất sống động. Các cửa giả ở 3 mặt còn lại đều mô phỏng cấu trúc và trang trí của cửa chính, nhưng phần đắp nhô ra chỉ bằng một nửa cửa chính. Các phù điêu trang trí trên cửa giả chỉ có hình Ganesa mà không thấy hình Hanuman như ở cửa chính.
Bộ diềm mái ngăn cách với thân tháp được ốp bằng những khối dá sa thạch khắc tạc hoa văn xoắn kết thành dải vây quanh. Bộ mái có ba tầng, mô phỏng thân tháp, nhưng nhỏ dần ở phía trên. Ở các tầng mái, ngoài hệ thống cột và cửa giả, còn có các bức trang trí. Tầng thứ nhất mái tháp phía nam tạc hính sư tử, phía tây và phía đông, trang trí bò Nadin (bò thần, vật cưỡi của thần Siva), phia bắc thể hiện mặt Kala nhìn thẳng.
Cách tháp chính không xa về phía nam có một kiến trúc bằng gạch khá độc đáo, mới nhìn trông giống một ngôi nhà hơn là một ngọn tháp. Kiến trúc nầy xây trên một bình đồ hình chữ nhật, dài 12m, rộng 5m. Cửa chính mở về phia đông, dẫn sâu vào lòng tháp, thông với hai cửa trổ về phía bắc và phía nam ở phần cuối. Khác biệt với các ngọn tháp còn lại ở Bình Định, mái tháp nầy được tạo dáng cong lõm ở phần giữa vút lên ở hai đầu. Loại mái cong hình thuyền nầy gần giống như ngôi tháp phụ trong quần thể tháp Pô Klông Garai ở Phan Rang Tháp không cao, khoảng 10m, nhưng được tạo dáng hài hòa, hợp lý. Đế tháp hơi nhô ra so với thân tháp, xây giật cấp vuông vức, tạo thành bệ đỡ vững chãi cho thân tháp. Viền xung quanh đế là dải trang trí hình người đứng choải chân, hai tay giơ cao. Trang tri thân tháp được thể hiện chủ yếu trên hai bức tường lớn ở mặt bắc và nam.; mỗi mặt đều có 6 trụ ốp nhô ra tạo thành những cột dọc song song. Giữa những hàng cột dọc đó, là những ô hình chữ nhật được trang trí bằng các hình chạm khắc hoa văn ô trám kết dải, tạo thành băng trang trí trên đó điểm xuyết hoa văn xoắn, uốn lượn mềm mại.
Ở đông nam tháp chính, có một tháp nhỏ, tương tự như tháp cổng ở phía đông, nhưng 4 mặt đều trổ cửa. Tháp có bộ mái khá đặc biệt, khác hẳn với những tháp Chàm thường thấy. Các tầng mái nhỏ dần về phía trên. Mỗi tầng đều có một hàng cột thể hiện theo lối thắt giữa, phình ra hai đầu, trông xa giống như những quả bầu nậm.
Theo các nhà khảo cổ, cũng như tháp Cánh Tiên, tháp Thốc Lốc, tháp Bánh It có thể được xây dựng trong khoảng thời gian từ cuối thể kỷ XI đến đầu thế kỷ XII, dưới thời trị vì của hai vị quốc vương Harivaman IV và V, là thời kỳ Chămpa xây dựng nhiều công trình kiến trúc lớn với những phong cách mới mẻ.
Tháp Bình Lâm
Tháp nằm trên địa phận xóm Long Mai, thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Theo các sách cổ thì tháp có tên là Thanh Trúc.
Tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh chừng 10m, xây trên một gò đất cao. Thuở nguyên sơ, tòa tháp cao khoảng 20m, chia thành 3 tầng rõ rệt. Đế tháp là một bệ gạch đồ sộ, hơi thắt ở lưng chừng, trông rất bề thế, vững chãi. Xung quanh đế có những gờ so le nhô ra làm thành những khung trang trí chữ nhật cân đối. Làm nền cho thân tháp vươn lên là đường gạch với những chỗ uốn tròn giống như những cánh hoa mềm mại phủ xuống.
Thân tháp khối vuông, hình trụ. Dọc thân tháp là những cột hẹp nhô ra và những ô hình chữ nhật lõm vào thân tường, trang trí hoa văn cánh sen uốn ngửa, liên kết với nhau. Cửa chính mở về phía đông, rộng khoảng 1,8m. Các cửa giả ở mặt tường phía bắc, nam và tây đứng nhô ra khỏi mặt tường, có chỗ đến 1,5m. Các cửa đều được tạo vòm nhọn vút lên làm cho tháp có dáng vẻ thanh thoát, bay bổng.
Mái tháp có 4 tầng nhô về phía trên. Mỗi tầng là hình ảnh thu nhỏ của thân tháp, nhưng được trang trí bởi các hoa văn khắc tạc tinh tế. Đặc biệt, đường diềm ngăn cách thân và mái được trang tri khá lộng lẫy băng hoa văn cánh sen cách điệu, uốn lượn liên hoàn. Ở mặt tường mỗi tầng mái đều có phù điêu trang trí, 4 góc được gắn những tháp nhỏ. Mặt tường mái phía tây hiện còn thấy rất rõ một bức phù điêu chim thần Garuda.
Dãi dầu qua năm tháng, tháp Bình Lâm dã bị hư hại nhiều, nay chỉ còn cao khoảng 15m, nhưng vẫn còn dáng dấp một công trình kiến trúc hài hòa, vơi những đường nét trang trí thanh tú và khỏe khoắn. Theo các chuyên gia tháp cổ, tháp Bình Lâm là ngôi tháp có gia trị về nhiều mặt và có thể được coi là đẹp nhất, cổ nhất ở Bình Định. Có khả năng, tháp Bình Lâm được xây dựng trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI là giai đoạn có hai trào lưu nghệ thuật kiến trúc Chămpa: Cổ Điển và Dẫn Xuất. Còn từ cuối thế kỷ X trở về trước thì có các trào lưu Nguyên Khai và Lập thể.
Tháp Cánh Tiên
Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “An Nam cổ tháp ở thôn Nam An, huyện Tường Vân, trong thành Đồ Bàn, tục gọi là tháp Cánh Tiên. Từ vai tháp trở lên, bốn phía đều giống như cánh tiên bay lên nên gọi tên ấy”.
Tháp tọa lạc trên đỉnh gò không cao lắm ở trung tâm thành Đồ Bàn, cố đô của vương quôc Chămpa xưa kia, thuộc thôn Nam An, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Các nhà khảo cổ người Pháp gọi tháp này là tháp Đồng (Tour de Cuvre).
Cũng như nhiều tháp khác, Cánh Tiên là một ngôi tháp đẹp, được tạo dáng độc đáo, thanh thoát với bố cục hết sức hợp lý.
Đế tháp xây cao, bề thế trên một bình đồ gần vuông, mỗi bề dài gần 10m, với các đường giật cấp so le. Toàn tháp cao khoảng 20m. Bốn mặt thân tháp đều trang trí các cột trụ ốp tường, nhô ra theo một tỷ lệ hài hòa với tổng thể kiến trúc. Các góc thân tháp được bó bằng các khối đá có kích thước lớn nên khá vững chắc.
Tháp có 4 cửa vòm vút lên, mở ra 4 hướng, nhưng chỉ có cửa chính hướng đông là ăn thông với lòng tháp, còn lại là 3 cửa giả. Bộ diềm hơi nhô ra tạo thành bộ đỡ cho các góc tháp bên trên. Các hình chạm khắc chủ yếu tập trung trên bộ mái. Tháp có 4 tầng, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc lại có những tầng nhỏ, có hình dáng lá lật nhỏ dần về phía trên, tạo cảm giác như những cánh chim đang bay, nên có tên là tháp Cánh Tiên. Những tảng đá chạm khắc hình đuôi phụng gắn trên các tầng tháp giả và hình Makara, một loài thủy quái trong thần thoại Ấn Độ, với nanh nhọn, vòi dài, trang trí ở các góc đầu tường, tạo cho tháp vẻ đẹp trang trọng, huyền bí.
Khác với nhiều tháp Chàm, trang trí tháp Cánh Tiên cầu kỳ đến độ hoàn mỹ. Từ hệ thống vòm cửa với những dải hoa văn hình xoắn xếp lớp, đối xứng nhau uyển chuyển, đến các khối đá ốp cạnh được chạm khắc tinh tế, tạo thành những hoa văn nối kết, đều tạo nên vẻ đẹp vừa thanh thoát, trang nhã, vừa uy nghi, bề thế. Có lẽ, do có vẻ đẹp duyên dáng mà tháp còn có tên dân gian là tháp Con Gái
Theo các nhà khảo cổ, tháp Cánh Tiên được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XII.
Tháp Dương Long
Tháp Dương Long nằm trên địa phận hai thôn Vân Tường, xã Bình Hòa và An Chánh, xã Tây Bình, huyện Tây Sơn. Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì tòa tháp nầy được xây cất trên một gò cao có tên là Dương Long, nằm ở phía nam núi Trà Sơn. Tháp còn có các tên gọi theo địa danh: tháp Bình An, tháp An Chánh hay tháp Vân Tường; người Pháp thì gọi là Tour d’ Ivoire (tháp Ngà).
Dương Long là một quần thể ba ngọn tháp nằm gần nhau, dóng thẳng hàng theo trục bắc-nam. Các cửa chính đều quay về hướng đông.
Tháp Bắc hiện bị hư hại nhiều, nhưng vẫn còn rõ hình hài và cấu trúc. Nền móng của tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh rộng chừng 12m, được tạo bỡi những đường gâp khúc nên giống như một hình đa giác. Tháp cao gần 30m, được chia làm 3 phần rõ rệt. Đế tháp cao, vững chắc, thân tháp cao vút, trên mặt tường trang trí các trụ ốp để trơn, nâng toàn bộ mái tháp. Cửa chính có vòm được tạo dáng hình mũi lao tù vút lên phía trên với nhiều lớp liên tiếp chồng xếp lên nhau. Hai trụ cửa làm bằng đá, trên đầu được trang trí tượng chim thần Garuda chân quắp hai đầu rắn. Các cửa giả mô phỏng cửa chính, nhưng nhỏ hơn và mức độ nhô ra khỏi thân tháp cũng ít hơn. Thay vì hình Garuda, trên đỉnh trụ trang trí hình lá nhĩ, vòng ngoài là thân rắn uốn quanh, bên trong là mặt Kala dữ tợn, miệng khạc ra rắn bảy đầu trong tư thế uốn lượn rất sinh động. Diềm đá ngăn cách thân và mái tháp được chạm khắc tinh vi, thể hiện hình voi và sư tử, mỗi con một tư thế như vừa chạy, vừa đùa giỡn, kết thành dải chạy vòng quanh.; đường chạm khắc mềm mại, uyển chuyển, nhịp nhàng trông rất sống động. Bộ mái có cấu trúc 4 tầng, nhỏ dần về phía trên và kết thúc bằng một búp sen lớn trên đỉnh tháp. Diềm ngăn cách giữa các tầng và ô khám chính giữa mỗi tầng đều được ghép bằng đá nguyên khối. Tháp Bắc hiện đã bị hư hại nhiều.
Tháp Nam còn tương đối nguyên vẹn, kích thước gần như tương đương với tháp Bắc. Hai tháp tạo thành thế đối xứng xuyên qua tháp chính. Về cấu trúc, tháp Nam không khác mấy so với tháp Bắc. Duy có mô típ trang trí thì hầu như ít lặp lại những chủ đề đã thể hiện ở tháp Bắc, đặc biệt là dải trang trí quanh diềm mái. Trên dải giữa, hoa văn trang trí là những bầu vú tròn trịa, được chạm nổi, xếp đều đặn sát cạnh nhau, chạy vòng quanh tháp. Dải phía trên là phù điêu các đạo sĩ ngồi thiền trong khung lá đề, và dải dưới cùng là hình người, sư tử và những con vật kỳ hình, dị dạng đan xen với những ô trám kết dải, giữa có bông hoa nở cánh xòe đối xứng. Trên các tầng mái, diềm bao quanh cũng được trang trí. Mỗi tầng thể hiện một cảnh khác nhau, với những hình voi, sư tử, bò thần Nadin, mặt Kala, rắn thần Naga. Nghệ thuật điêu khắc chạm trổ đạt tới trình độ điêu luyện. Các đề tài thể hiện vừa hoành tráng, lộng lẫy, vừa tinh tế, mềm mại. Những con vật và họa tiết trang trí vừa sống động, chân thực, vừa huyền ảo, kỳ bí.
Lớn hơn cả và giữ vị trí trung tâm quần thể kiến trúc là tháp Giữa. Về cấu trúc, tháp này không khác hai tháp nhỏ, nhưng cao vượt hẳn lên. Theo các tài liệu của Pháp thì tháp cao 39m, nhưng hiện tại chỉ cao 36m. Là tháp chính, có kích thước lớn, nhưng tháp Giữa trang trí không cầu kỳ như hai tháp nhỏ.
Các chuyên gia tháp cổ cho rằng tháp Dươg Long tuy vẫn còn mang đặc trưng tháp Chàm, nhưng đã chịu ảnh hưởng khá đậm nét nghệ thuật Kh’Mer. Có khả năng tháp được xây dựng vào thời ký Chămpa bị người Kh’Mer đô hộ, nghĩa là trong khoảng thế kỷ XII-XIII. Các nhà khoa học kiến trúc đánh giá, tháp Dương Long là một quần thể kiến trúc bề thế và có thể nói là đẹp nhất trong số các tháp Champa còn lại ở Miền Trung. Vẻ đẹp của di tích càng được tôn lên nhờ cảnh quan xung quanh. Cách đây gần một thế kỷ, một học giả người Pháp Ch’ Lemire đã mô tả khá chi tiết vè tháp Dương Long. Theo tác giả thì ba tòa tháp được xây cất trên một quả đồi với một cánh rừng xoài và mít tuyệt đẹp. Cảnh trí hiện tại đã thay đổi nhiều, nhưng vẻ đẹp lộng lẫy của tháp Dương Long vẫn còn như xưa.
Tháp Đôi
Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Hưng Thạnh có tháp ở thôn Hưng Thạnh, huyện Tuy Phước, có hai tháp, tục gọi là tháp Đôi”. Tháp Đôi còn gọi là tháp Hưng Thạnh nằm trên địa phận phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn. Các nhà khảo cổ người Pháp gọi tháp Hưng Thạnh là Tour Kh’Mer, vì nhìn từ góc độ kiến trúc và nghệ thuật, khu tháp nầy chịu ảnh hưởng nghệ thuật Kh’Mer, nên có phong cách tương đồng với tháp Dương Long. Tháp Đôi được xây dựng vào khoảng những thập niên đầu thế kỷ XIII, khi Champa bị người Kh’ Mer đô hộ.
Theo các nhà nghiên cứu tháp cổ thì quần thể kiến trúc nầy lúc đầu không chỉ có hai mà là ba tòa tháp giống như cách bố cục tháp Dương Long. Di tích hiện còn là hai ngọn tháp không cao lắm nằm cạnh nhau theo trục bắc-nam. Tháp phía bắc cao chừng 16m, tháp tháp nam thấp và nhỏ hơn một chút. Giữa cảnh sơn thủy hữu tình, hai tháp đứng sóng đôi trông thật duyên dáng và thơ mộng.. Phía bắc khu tháp có một triền núi chạy xuống, phía tây có một nhánh sông chảy ngang. Có hai cây cầu bắc song song qua sông, một dành cho tàu hỏa, một cho xe hơi, nên cũng được gọi là Cầu Đôi.
Tháp Bắc xây trên bình đồ hình vuông, được tạo dáng khá cân đối. Phần ngăn cách giữa đế với thân, thân với mái đều được xử lý tinh tế bằng những đường diềm hơi thắt lại làm cho bố cục kiến trúc thêm chặt chẽ. Thân tháp hình trụ vuông, mỗi mặt tường đều có trụ ốp để trơn. Cửa chính của tháp mở về hướng đông. Cửa nhô ra phía trước bỡi bốn lớp trụ, thu nhỏ dần ở phía lối vào. Tương ứng với 4 lớp trụ là 4 lớp vòm mái hình mũi lao nhọn, hai bên trang trí hoa văn đối xứng. Ba mặt tường còn lại đều có 3 cửa giả, lặp lại các mô típ trang trí như cửa chính, nhưng hơi nhỏ hơn. Mái tháp cấu tạo nhiều tầng, nhô dần về phía trên. Bốn góc diềm mái đều được gắn tượng chim thần Garuda xòe cánh bay lên, tạo cảm giác bớt nặng nề cho toàn bộ 7 tầng mái. Vòng quanh diềm mái là 27 hình vũ nữ được chạm khắc tinh tế với những tư thế khác nhau, trông rất sống động. Chính giữa phần thu nhỏ ngăn cách mái và thân tháp được trang trí bằng hình tu sĩ ngồi thiền, hai bên có voi chầu đối xứng.
Tháp Nam có cấu trúc tương tự như tháp Bắc, nhưng ở phần diềm mái, thay vì các hình vũ nữ, hình khắc trang trí là một đàn hươu 13 con với những dáng vẻ rất khác nhau, trông rất tinh nghịch và sống động.
Là một công trình kiến trúc đẹp và độc đáo, tháp Đôi đã được trùng tu, tôn tạo. Trong quá trình xử lý gia cố lại móng tháp, đã tìm thấy nhiều bức phù điêu vốn để trang trí tháp, trong đó, đáng kể là bức phù điêu khắc hình Makara. Hai quái vật nầy được thể hiện giống như hai con rồng thân tròn, dài mảnh, chân ngắn, không có vảy, đầu tròn, mắt dẹt, mũi to, mào lớn; phía trên là những tia bờm ngắn dựng lên; dưới cằm có râu cuốn về phía sau. Miệng quái vật há rộng, nhe hai hàm răng nhọn lởm chởm. Toàn bộ phù điêu được thực hiện trên một phiến đá dài 1,2m, rộng 0,5m và dày 0,4m. Nhìn hình dáng Makara, có thể liên tưởng đến những con rồng được khắc tạc trên các công trình kiến trúc ở nước ta vào thế kỷ XII-XIII.
Tháp Phú Lốc
Tháp Phú Lốc, dân gian còn gọi là tháp Thốc Lốc, Phốc Lốc, Phú Lộc, còn các thư tịch cổ thì chép là tháp Phước Lộc; người Pháp thì gọi là Tour d’ Or (tháp Vàng).
Di tích tháp Phú Lốc hiện nay nằm trên địa phận thôn Châu Thành, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn. Quy mô tháp không lớn. Bình đồ tháp hình vuông, mỗi chiều khoảng 9,7m. Toàn tháp cao 15m, nhưng vì tọa lạc trên đồi cao chừng 80m so với mực nước biển, nên tháp trông có vẻ uy nghi, ngạo nghễ. Tháp có niên đại tương đương tháp Cánh Tiên, nghĩa là cũng được xây dựng vào đầu thế kỷ XII.
So với tháp Cánh Tiên, trang trí trên tháp Phú Lốc có phần đơn giản hơn. Cột đá ốp xung quanh thân tháp thẳng trơn. Giống như mọi tháp Champa, Phú Lốc cũng có 3 cửa giả và một cửa chính mở về hướng đông. Vòm cửa hình lưỡi mác vút lên cao tới 6m. Phần trang trí chủ yếu được thể hiện trên các cửa giả. Bao quanh phần trên mỗi vòm cửa là các phù điêu trang trí. Cửa giả có tới 3 tầng, nhỏ dần về phía trên, tạo thành một hình khối giống như 3 lưỡi mác nhọn, xếp nối nhau, vút lên sát diềm.
Mái tháp có 3 tầng, ngăn cách với phần thân bỡi một diềm đá để trơn, không trang trí. Tầng mái không còn nguyên vẹn, được tạo dáng thu nhỏ lên phía trên với các mặt tường được chạm khắc. Hình dáng lớp mái là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính, nhưng các hàng cột dọc có hoa văn xoắn kết dài. Các cửa giả trên mái tháp giống như những khám thờ bao quanh phía trên vòm cửa nhọn, được trang trí hoa văn lá lật xoắn, đối xứng.
Tháp đứng trên đồi cao có vẻ trơ trọi, đìu hiu, nhưng lên đến chân tháp, phóng tầm mắt ra bốn hướng thì thấy cảnh trí xung quanh thật kỳ vĩ, có thể nhìn thấy vùng đồng bằng rộng bao la của An Nhơn và Phù Cát.
Cũng tại địa phận Nhơn Thành, cách tháp Phú Lốc không xa, trên một quả đồi phía bắc thôn Châu Thành, hiện còn phế tích một tòa tháp khác. Dấu tích còn lại là nền móng ba khối tháp đã bị sập đổ. Trong đống phế tich hoang tàn, còn tìm thấy những mảnh đá chạm khắc, trang trí các điểm góc, đặc biệt là một phù điêu bằng đá trông khá đẹp. Như vậy, tháp ở Nhơn Thành chính là tháp Phú Lốc hiện nay, còn tháp ở Châu Thành nay đã thành phế tích.
Tháp Thủ Thiện
Sách Đại Nam nhât thống chí gọi tháp Thủ Thiện là tháp Thủ Hương, vì thế kỷ XIX, thôn Thủ Thiện được gọi là Thủ Hương. Người Pháp gọi tháp nầy là Tour de Bronze (tháp Thau).
Khác hẳn với các tháp Chămpa thường đứng trên đồi hoặc gò cao, tháp Thủ Thiện lại tọa lạc trên một vùng đất tương đối thấp, xung quanh là ruộng nương, làng mạc. Tháp nằm trên bờ nam sông Côn, cách bờ sông chưa đầy 1km, thuộc địa phân thôn Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn.
Tháp được xây dựng trên một bình đồ hình vuông, mỗi chiều khoảng 1,5m. Đế tháp hơi thóp ở phần giữa, có dáng choãi rộng ở phía nền, phình ra trên mặt, nâng toàn bộ thân tháp. Thân tháp là một khối trụ vuông, cửa chính mở về phía đông. Vòm cửa chính đã bị sập, nhưng 3 cửa giả vẫn còn nguyên vẹn, với cấu trúc vòm nhọn hình mũi lao xếp thành nhiều lớp. Phần trên mỗi cửa được tạo dáng thành các ô giống như khám thờ. Khi xưa, mõi khám thờ đều có gắn một bức phù điêu hay tượng thần, nhưng hiện nay không còn nữa.
Ngăn cách giữa thân và mái là bộ diềm nhô rộng ra bốn phía. Trước đây, trên đỉnh tháp có một cây đa trông rất cổ kính, làm tăng thêm vẻ kỳ bí của ngôi tháp. Một trận bão to đã làm đổ cây đa và sạt lở một phần mái tháp. Tuy bị hư hại, nhưng dấu vết còn lại cho thấy tháp có 3 tầng nóc. Các tầng có cấu trúc đồng dạng với nhau, nhô dần về phía trên. Ở mỗi tầng, bốn góc lại được trang trí bằng các tháp góc nhỏ nhiều tầng.
Bên trong lòng tháp có rất nhiều dấu vết gắn phù điêu, nơi đặt tượng thờ. Đó là điểm khác biệt của tháp Thủ Thiện so với các tháp Chămpa còn lại ở tỉnh Bình Định.
Tháp Thủ Thiện có quy mô nhỏ, nhưng lại là công trình kiến trúc có kiểu dáng và phong cách mang đầy đủ những yếu tố đặc trưng cho phong cách tháp Bình Định. Đó là các vòm cửa hình mũi lao cao vút lên, các cột ốp để trơn không trang trí, các tháp góc xếp thành nhiều tầng sít nhau. Nếu như ở các tháp, sự cầu kỳ, tinh tế làm nên vẻ đẹp, thì ở tháp Thủ Thiện, sự giản lược trang trí lại tạo ra vẻ đẹp trang nhã, thanh thoát. Có lẽ tháp Thủ Thiện cũng được xây dựng gần như cùng thời với các tháp Cánh Tiên, Phú Lốc, Bánh It, nghĩa là vào nửa cuối thế kỷ XI sang nửa đầu thế kỷ XII.
Trò chơi dân gian
Cũng như nhiều tỉnh khác, trong dân gian Bình Định có nhiều trò chơi lành mạnh, mang đặc trưng địa phương. Độc đáo và hấp dẫn là trò chơ Đánh bài chòi, trò chơi Xổ cổ nhơn.
Trò chơi Đánh bài chòi
Đánh bài chòi là trò chơi xưa kia nhân dân Bình Định ưa thích không kém gì hát bội “Rủ nhau đi đánh bài chòi, Để cho con khóc tới lòi ruột ra“. Gọi là đánh bài chòi vì người chơi ngồi trên chòi đánh bài.
Cách chơi bài chòi rất giản dị, ít tốn kém. Trên một khoảnh đất rộng khoảng 200-300m2, có thể là sân đình hay một gò rộng, dựng 9 cái chòi, mỗi chòi cách nhau 3 mét, trong đó có 1 chòi trung ương ở giữa, 8 chòi kia ở 2 bên, mỗi bên 4 cái xây mặt vào nhau. Khoảng giữa là sân khấu có dựng một chòi cái, có mái che, nhưng để trống 4 vách, bên trong có kê một tấm phản trải chiếu hoa. Chòi cái dành cho chú Hiệu là người hô tên con bài và các nhạc công “cây nhà lá vườn”; chính giữa có chôn 2 hoặc 4 ống tre để đựng thẻ bài: một ống đựng thẻ đang chơi, một ống đựng thẻ thu về.
9 chòi dành cho những người chơi bài, còn gọi là 9 chân bài, đều có lát sàn, trải chiếu hoa, vừa đủ chỗ cho 3-4 người ngồi. Chòi cao quá đầu người, 3 mặt che kín, mặt để trống hướng tâm, có một chiếc thang nhỏ bằng tre để leo lên, leo xuống sàn chòi. Bên trên bậc thang, trước mặt sàn chòi có treo một chiếc mõ hoặc một chiếc trống tum, một khúc cây chuối tươi hay một bó rơm cột chặt dùng để cắm thẻ bài tới.
Bài dùng để chơi mỗi bộ gồm 27 cặp, chia làm 3 pho: pho Văn có các số 9, 3, 6, 7, 8; pho Vạn không có số như Ông Ầm, Bạch Huê, Đổ Ruộts; pho sách có các số 3, 6, 7, 8. Bộ bài có những lá như Nhất Nọc, Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Tượng, Ngũ Dít, Lục Chạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Điều...
Mỗi bộ bài chia làm 2 phần bằng nhau về số bài và giống nhau về tên con bài. Mỗi con bài được gián lên một thẻ tre. Chân các thẻ tre được nhuộm 2 màu khác nhau theo 2 phần bằng nhau của bộ bài: một phần để chú Hiệu đem phát cho các chòi chơi bài, mỗi chòi, tức một chân chơi bài 3 con; còn phần kia thì đem cắm trong ống tre dựng giữa sân để khi bắt đầu một ván chơi, chú Hiệu rút và hô tên con bài.
Mỗi chòi chơi bài phải đóng góp một số tiền nhất định do Ban Tổ chức quy định; 9 chòi là 9 phần; dành 1 phần bỏ xâu, còn 8 phần chia làm 8 ván, như vậy là phải có 1 chòi thua.
Khi 9 chòi đã cỏ đủ người chơi rồi, thì trống kèn nổi lên. Chú Hiệu đến ống tre đựng thẻ bài rút ra 1 thẻ và hô tên con bài rút được. Chòi nào có con bài cái trùng tên với con bài chú hiệu hô thì đánh mõ lốc cốc hay đánh trống tum tum. Chú Hiệu đem thẻ bài đến trao, người chơi cắm thẻ đó vào khúc cây chuối (hoặc bó rơm). Khi ăn đủ 3 con, tức là tới, thì người ngồi trên chòi đánh một hồi mõ hay trống kéo dài; trống chầu tấu lên để chúc mừng người thắng cuộc. Chú Hiệu mang khay tiền và lá cờ đuôi nheo đến trao cho chòi tới. Sau đó, chú Hiệu đến các chòi thu lại thẻ và phát thẻ bài mới cho ván tiếp theo.
Nội dung chú Hiệu hô có liên quan đến tên con bài, có thể là một câu đố vui, dí dỏm hay một câu dân ca mang tính giáo dục. Nhưng khi hô, chú hiệu phải vừa hô, vừa làm điệu bộ và phải có tài gây sự chăm chú theo dõi và suy đoán của người chơi bài. Do vậy, chú Hiệu phải là người thuộc hàng trăm, hàng nghìn bài thơ, câu dân ca, phải biết hát dân ca, hát bội và có tài ứng khẩu thành dân ca. Ví như rút được con “Ba Gà” thì hô “Mình vàng bận áo mã tiên, Ngày ba, bốn vợ, tối nằm riêng một mình”... đó là con… con “Ba Gà”. Hay như con “Nhì Nghèo” thì hô: ”Ngày thường thiếu áo, thiếu cơm, Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường. Dù loan, dép bướm chật đường, Màn loan, gối phượng ai thương thằng... thằng Nhì Nghèo”.
Trò chơi Xổ cổ nhơn
Trò chơi Xổ cổ nhơn thường được tổ chức vào những ngày vui xuân, có nơi như ở Nhơn Phong (thị xã An Nhơn) tổ chức sau Lễ hội Miếu Bà diễn ra vào ngày 17 tháng giêng âm lịch.
Muốn tổ chức trò chơi Xổ cổ nhơn phải có 36 con bài, mỗi con mang tên một con vật (hay một vật dụng thường ngày) mọi người đều biết. 36 con bài được chia thành 9 bộ: Bộ Tứ Trạng nguyên gồm cá trắng, ốc, ngỗng, công. Bộ Ngũ Hổ có trùn, heo cọp, thỏ, trâu. Bộ Thất Sinh lý có rồng bay, chó, ngựa, voi, mèo, chuột, ong. Bộ Nhị Đạo sĩ có hạc, kỳ lân. Bộ Tứ Mỹ nữ gồm bướm, én, cu, hòn đá. Bộ Tứ Hảo mạng: khỉ, ếch, quạ, rồng nằm. Bộ Tứ Hòa thượng: rùa, gà, lươn, cá đỏ. Bộ Ngũ Khất thực: tôm, rắn, nhện, nai, dê. Bộ Nhất Ni chỉ có yêu. Mỗi con bài được cuốn thành kèn bằng giấy. Ban tổ chức trò chơi cử ra mấy người, thường là các cụ già hay chữ, sính thơ văn nhất làng để làm Ban Giám khảo cuộc thi, cũng là những người trực tiếp ra các câu thả (câu thai, câu đố). Mỗi câu thai là một câu đố bằng thơ về một con vật hay đồ vật trong 36 con bài.
Sau khi Ban Tổ chức treo cổ nhơn lên, Ban Giám khảo hô mấy câu thai thì người tham gia trò chơi suy đoán để đánh con nầy hay con kia, chẳng hạn như người đánh con gà, người đánh con vịt...
Khi cuộc chơi không còn ai đánh nữa, Ban Tổ chức bắt đầu xổ, tức là công bố các câu thai Ban Giám khảo đã đọc là nhằm chỉ những con vật nào. Các câu thai đưa ra để chỉ một con vật, vật dụng nào đó đều mang tính ẩn dụ cao, lời thơ bóng bẩy có thể đánh lạc hướng người chơi, nhưng khi giải ra thì rất hợp lý, đánh trúng không phải là dễ. Vì các câu thai giàu chất văn thơ ẩn dụ nên người chơi phải phát huy khả năng cảm thụ văn chương, tài phán đoán, suy diễn thì mới mong đánh trúng để lĩnh thưởng.
Trò chơi Xổ cổ nhơn mang tính văn chương và giàu tính trí tuệ, ngày nay nếu được bảo tồn, duy trì, phát triển trong các cuộc tổ chức vui xuân, đón tết, ắt sẽ hấp dẫn nhiều người tham gia và sẽ có tác dụng giáo dục không nhỏ.
Tuy Viễn
Tuy Viễn là địa danh của một trong ba huyện thuộc phủ Hoài Nhơn được lập vào năm 1471, đến năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi thành phủ Quy Nhơn. Ba huyện đó là Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.
Huyện Tuy Viễn nằm ở phía nam, từ ranh giới huyện Phù Ly vào đến đèo Cù Mông. Lúc bấy giờ, phía nam đèo Cù Mông là địa bàn cư trú của người Chăm cổ. Lương Văn Chánh là Tri huyện đầu tiên của huyện Tuy Viễn. Năm 1611, nhân sự kiện Chiêm Thành đem quân quấy nhiễu phủ Quy Nhơn, Nguyễn Hoàng sai Chủ sự Văn Phong đem quân đánh chiếm phần đất phía nam đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, lập phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, huyện Tuy Viễn chỉ có 1 tổng Văn Dương, về sau gồm 6 thuộc (tương đương cấp tổng) là Võng Nhì, Hà Bạc, Sơn Điểu, Thời Tú, Thời Đôn và Thời Hòa. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi tên trấn Bình Định thành tỉnh Bình Định; chia 2 huyện Phù Ly, Tuy Viễn thành 4 huyện. Huyện Phù Ly chia thành Phù Mỹ, Phù Cát; huyện Tuy Viễn chia thành 2 huyện Tuy Phước và Tuy Viễn thuộc phủ An Nhơn. Huyện Tuy Viễn không đặt chức Tri huyện mà do Tri phủ An Nhơn kiêm lý. Từ 1839-1885, huyện Tuy Viễn gồm 2 tổng, 109 thôn: tổng Thời Đôn có 63 thôn; tổng Thời Hòa có 46 thôn. Sau khi lập huyện Bình Khê (1888) và huyện Hoài Ân (1899), năm 1906, tỉnh Bình Định gồm 3 phủ, 6 huyện, trong đó có huyện Tuy Viễn gồm 4 tổng, 112 thôn do phủ An Nhơn kiêm lý. Đến năm 1907, thực dân Pháp lại chia tỉnh Bình Định thành 7 phủ, huyện đồng cấp là 3 phủ: Hoài Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn và 4 huyện: Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê; địa danh huyện Tuy Viễn không còn trên bản đồ địa lý hành chánh tỉnh Bình Định. Như vậy, địa danh Tuy Viễn chỉ tồn tại từ khi lập phủ Hoài Nhơn (1471) cho đến năm 1907.