Quả không chỉ là quả
Trong tiếng Việt có nhiều hình vị quả. Ta gặp chúng trong nhiều từ quen thuộc được sử dụng hằng ngày. Nhưng phần lớn các hình vị này đều khá xa lạ. Vì hầu hết đều có nguồn gốc Hán và số đông trong đó là những hình vị phụ thuộc (không hoạt động độc lập được như từ).
Quả trong cây ăn quả, hoa quả là một từ Hán Việt. Cũng như hoa, quả được Việt hóa triệt để đến mức người ta gần như không còn nhận ra gốc Hán của nó. Trong giáp cốt văn, chữ quả (bộ mộc) được thể hiện bằng hình ảnh một cái cây có chùm quả trên ngọn. Do đó, nghĩa gốc của quả là... “quả”, nghĩa mà phương ngữ Bình Định thường gọi là “trái”.
Từ nghĩa gốc này, quả chuyển nghĩa để chỉ “cái được hình thành sau một quá trình; kết thúc, kết cục”, như trong hậu quả, kết quả, thành quả, quả báo... Quả trong từ nhà Phật nhân quả cũng chính là chữ quả này. Các thành ngữ nhân nào quả nấy, nhân quả nhãn tiền... đều từ hai chữ nhân quả này mà ra.
Chữ quả bộ mộc trên còn có nét nghĩa “cương quyết”, như trong từ quả quyết và nghĩa “đúng như vậy, vốn như thế”, như trong quả là, quả nhiên, quả như, quả thật, quả tình, quả vậy, quả tang...
Trong từ quả cảm, quả thuộc bộ tâm, nghĩa là “bạo dạn, dũng cảm”. Cảm cũng có nghĩa “gan dạ, bạo dạn”. Như vậy, quả cảm là một từ ghép đẳng lập.
Quả trong quả phụ thuộc bộ miên, có nghĩa “góa chồng, người nữ trên 50 tuổi mà chưa chồng”. Quả phụ là người phụ nữ góa chồng. Cô quả là tình cảnh “cô đơn, góa bụa” của người nữ trong tuổi xế chiều. Góa bụa trong tiếng Việt chính là quả phụ do biến âm mà thành. Chữ quả này còn một nghĩa nữa là “ít”. Vua chúa ngày trước thường tự xưng mình là quả nhân. Quả nhân là “người ít [đức]”. Đây là lối nói khiêm nhường.
Vậy còn quả trong quả bóng, quả địa cầu, quả đấm, quả đất, quả tim, quả trứng, quả lễ ăn hỏi, quả trầu cau... có nguồn gốc từ đâu? Xin thưa rằng, là từ quả trong quả cam, quả quýt. Những sự vật trên đều có hình dạng tròn tròn, trông giống như quả cây nên mới có cách gọi như vậy.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ