|
Minh văn hình trụ được phát hiện khi trùng tu Tháp Đôi (Quy Nhơn) năm 1994 |
Minh văn là một loại hình di tích có giá trị về văn bản học cực kỳ quan trọng, được các nhà nghiên cứu minh văn học giải mã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử, tôn giáo… Hệ thống minh văn Chămpa để lại khá nhiều, trải dài qua các thời đại. Với việc phát hiện minh văn Võ Cạnh (Khánh Hòa) có niên đại thế kỷ II, có thể nói người Chăm là dân tộc có văn tự sớm nhất vùng Đông Nam Á.
Các học giả Pháp trước đây đã làm một bản tổng kiểm kê minh văn Chămpa vào năm 1932. Từ đó đến nay hầu như không có sự bổ sung nào. Theo bản thống kê này, minh văn Chămpa có trên 170 bản, riêng ở Bình Định có 19 bản. Tất cả minh văn Bình Định đều thuộc giai đoạn muộn, từ khi kinh đô vương quốc Chămpa được chuyển từ Amaravati (Quảng Nam) về Vijaya (Bình Định) - từ thế kỷ XI - XV. Hầu hết minh văn được khắc bằng chữ Chăm cổ nét vuông, minh văn Bình Định có thể chia ra làm 4 loại:
Loại một chiếm đa số (có 10 bản), có thể coi là những minh văn ít quan trọng, bởi vì không có chứa thông tin. Đây là những minh văn được khắc trên bậc cửa thành, bia bị vỡ, một cái bình… phần lớn chỉ có một vài dòng chữ và hầu hết quá mờ không đọc được. Loại minh văn thứ 2 thuộc thế kỷ XI-XIII, thường được khắc bằng chữ nét cong, nội dung bia gắn với một số đời vua trị vì trong giai đoạn đầu ở kinh đô Vijaya như vua Sri Jayapame Svara-varmmadeva (1233), vua Jaya Indravarman VI. Hai trong ba bia loại này tìm thấy trong khu vực thành Đồ Bàn. Những minh văn này tuy vẫn còn pha lẫn chữ Sanskrif, chủ yếu là các công thức cầu thần thánh, nhưng phần lớn đã được viết bằng chữ Chăm cổ. Loại thứ 3 là những minh văn muộn, thế kỷ XIV đến nửa đầu thế kỷ XV, có dạng chữ độc đáo, các nhà minh văn học gọi là chữ nét vuông. Loại này có 2 bia, một khắc trên cửa hoàng cung thành Đồ Bàn và một bia khác có 3 mặt khắc 29 dòng. Nội dung 2 bia này gắn với vua Jaya Sinhavarman V và vua Indravaman V. Loại minh văn thứ 4, gồm có 3 bản, cũng thuộc giai đoạn muộn, nét chữ vuông, nhưng người ta không thể tìm được những thông tin từ ba bia này vì tất cả chữ đều bị mờ sứt không đọc được. Đó là bia thành Đồ Bàn có 15 dòng chữ vuông bia, Cà Xơm thuộc huyện Vĩnh Thạnh có 10 dòng chữ vuông và bia Thành Sơn huyện Hoài Nhơn.
Trong quá trình trùng tu Tháp Đôi, thuộc phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, năm 1994 đã phát hiện thêm một minh văn hình trụ cao 1,65m, có ba mặt được trang trí và khắc chữ, mặt chính rộng 34cm, hai mặt hai bên rộng 32cm, mặt lưng âm vào tường 13cm. Hai đầu trụ tạo dật cấp trang trí hoa văn cánh sen cách điệu, mặt Kala, chim thần điểu Garuda… Bia có 24 dòng, nét chữ vuông, có rất nhiều chữ bị đục xóa. Nội dung bia chưa đọc được. Căn cứ hoa văn trang trí trên 2 đầu bia và nét chữ vuông có thể cho ta đoán định bia Tháp Đôi cũng nằm trong giai đoạn muộn, khoảng thế kỷ XIV. Hiện nay bia được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh. Nội dung bia đã được in dập, các nhà minh văn học đang nghiên cứu đọc dịch.
"Hòn đá chữ" chính là bia Thành Sơn (đã được kiểm kê) trước đây thuộc làng Thành Sơn, tổng Vân Sơn, huyện Hoài Ân đã được người Pháp thống kê trong số 19 bia trên. "Hòn đá chữ" tọa lạc ở hóc Hố Giang núi Mạch Vàng, ngày nay thuộc thôn Thành Sơn, xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn. Minh văn Thành Sơn có 15 hàng chữ vuông khắc trên một vách đá lớn có chiều ngang là 3,50m, chiều cao 2m, chữ cao 4cm. Vào mùa mưa vách đá trở thành một thác nước chảy xiết. Do minh văn khắc dưới một làn nước chảy của một cái thác nên phần lớn chữ đã bị bào mòn, 6 dòng đầu đã bị mất nét và mất từng đoạn, 9 dòng sau cũng bị mờ và mất nét khá nhiều nên không thể đọc được.
Cách "Hòn đá chữ" khoảng 50m về hướng Đông và nằm trong lòng Hố Giang có một tảng đá lớn cao 7m, mặt tam giác gần đều mỗi cạnh khoảng 5,5m còn lại dấu vết kiến trúc gạch Chămpa đã bị sụp đổ từ lâu. Phần nền móng còn lại của kiến trúc, những năm gần đây một số người nhiều lần đến đào xới tìm vàng. Rất may "Hòn đá chữ" vẫn còn nguyên vẹn. Trong số những minh văn thống kê trên có minh văn đã bị phá hủy hoàn toàn đó là bia Cà Xơm - Vĩnh Thạnh.
Hiện nay minh văn Chămpa chỉ mới dịch được một phần, còn nhiều minh văn chưa được đọc, dịch. Đây là một loại hình di tích có giá trị về văn bản học cần được gìn giữ để tiếp tục nghiên cứu giải đáp trong tương lai.
. Nguyễn Thanh Quang |