Hình ảnh những chiến binh - mặc đồ đen, đội mũ trùm kín đầu, mang gươm, phóng phi tiêu bách phát bách trúng, lặn dưới nước cũng giỏi mà chạy trên... cây cũng tài là những gì mà người ta thường nghĩ về các ninja. Ninja còn được phim ảnh xây dựng với sắc mặt đầy sát khí, giết người như ngóe. Nhưng thật ra ninja không phải là những sát thủ giết thuê. Ninja đầu tiên là một nghệ thuật phát huy những phẩm chất tiềm ẩn của con người để có thể thích ứng cận tuyệt đối với môi trường sống. Nghệ thuật đặc biệt này xuất hiện ở Nhật Bản cách đây khoảng 1.000 năm.
* Cội Nguồn Ninja
"Ninjutsu" thường được dịch là "nghệ thuật nhẹ nhàng, kiên trì", ninja có thể tạm hiểu là những người rèn luyện Ninjutsu (tiếng Hán dịch chữ ninja là nhẫn giả). Trong tiếng Nhật "nin" trong từ ninja mang nhiều ý nghĩa như là sự kiên trì, sự nhẫn nại và sự chịu đựng. Thuật ngữ "ninjutsu" thường được dùng để nói đến những phương pháp hay kỹ thuật đặc biệt dùng khống chế đối phương một cách nhẹ nhàng. Ninja là một cách sống, một trường phái võ thuật được hình thành không phải trong một sớm một chiều mà nó được phát triển qua nhiều năm. Bản thân thuật ngữ Ninjutsu cũng mới xuất hiện ở những thế hệ sau này.
Ninjutsu được tạo ra từ trung tâm vùng Honshu (những hòn đảo lớn nhất Nhật Bản) khoảng 1.100 năm về trước. Địa hình trên những hòn đảo này gồ ghề, bị chia cắt nhiều và hẻo lánh. Các cư dân trên đảo là những người có óc quan sát thiên nhiên rất tuyệt vời. Họ cảm nhận được mối tương quan của vũ trụ, với môi trường thiên nhiên mà họ đang sống. Hiểu biết này phần nào đó tương đồng những người thổ dân da đỏ ở châu Mỹ. Họ sống thuận theo những quy luật, sự vận hành của thiên nhiên, họ không chống lại mà tìm cách hòa hợp nó. Dần dà xuất hiện những cá nhân biết cách hòa mình vào tự nhiên với mức độ rất cao và những niềm tin của họ sau này đã trở thành một phần của triết lý ninjutsu.
* Những nguyên tắc tinh thần
Một trong những ảnh hưởng về tinh thần của ninja là shinto, dịch là "cách của kami". Kami là từ tiếng Nhật vừa có nghĩa là linh hồn, vừa mang nghĩa thần thánh. Những người Nhật cổ coi cả thế giới: sông, núi, hồ, và cây cũng mang sức mạnh, có tinh thần của chính nó và kami của chúng cũng có giá trị tương đương với con người. Sau hàng trăm năm tồn tại và phát triển quan niệm này được hệ thống lại thành một thứ tôn giáo, đó chính là Thần đạo của người Nhật.
Một ảnh hưởng tinh thần khác của Ninja là mikkyo. Đối với Ninja, mikkyo không phải là một tín ngưỡng mà chỉ là phương pháp giúp tăng cường sức mạnh của con người. Những phương pháp này bao gồm việc sử dụng những từ và ký hiệu bí mật để tập trung năng lực và sự chú ý về những mục tiêu nhất định nào đó. Trong nguy khốn một người bình thường có thể nhảy qua hào rộng, chạy được với tốc độ điên cuồng mà lúc bình thường không thể nào làm được. Mikkyo giúp ninja có thể phát huy những năng lực tiềm ẩn này bất cứ lúc nào.
Ninja cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của một nhóm người được gọi là Shugenja, là những người đi lang thang giữa những vùng núi như Ninja. Phương pháp tự khai sáng tinh thần của những người Shugenja bao gồm phải tự chịu đựng trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt và địa hình hiểm trở để tăng thêm sức mạnh của chính mình. Họ đi qua lửa, ngồi dưới thác nước đóng băng, treo lơ lửng ngang vách đá để cố vượt qua sự sợ hãi và nắm lấy được sức mạnh của thiên nhiên, cộng hưởng và thả kami của mình vào vũ trụ, thiên nhiên một cách hài hòa.
Sẽ là không đúng nếu cho rằng 3 phương pháp về tinh thần trên là ba bản chất thực sự của Ninjutsu, nhưng có những nghi ngờ cho rằng chúng tạo ra những ảnh hưởng lớn đối với Ninjutsu. Và thực sự Ninjutsu đã và đang là một triết lý riêng biệt. Ninja không phải luôn thiện chiến, thế nhưng họ thường bị quấy nhiễu bởi xã hội cầm quyền đương thời của Nhật. Họ thường xuyên phải chịu những khoản thuế bất công và sự đàn áp tôn giáo. Vì thế, họ phải học cách hành động hữu hiệu để tự vệ. Họ sử dụng những hiểu biết hơn người của mình về hoạt động của thiên nhiên cũng như những kỹ thuật quân sự đặc biệt được tích lũy qua nhiều năm như là vũ khí chống lại lượng quân hùng hậu của chính phủ. Họ dùng mưu mẹo, cố tạo niềm tin không có cơ sở, và vận dụng bất kỳ chiến lược quân sự nào có thể giúp họ tự bảo vệ mình. Khi cần thiết, họ có thể dùng đến cả những thủ đoạn lôi kéo về chính trị để bảo vệ hòa bình.
Có khoảng 7 hoặc 8 bộ tộc Ninja sinh sống ở vùng Koga và Iga của Nhật trong suốt cao trào hoạt động của Ninja. Hầu hết những Ninja này là tổ tiên hoặc bản thân họ tự đổi thành samurai (hiệp sĩ phong kiến Nhật Bản). Vì vậy, họ đứng ngoài những mưu đồ chính trị của chính phủ. Nhưng trong bất kỳ xã hội nào cũng có những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Những tên này sử dụng sai mục đích những gì mình được đào tạo. Đôi khi Ninja được thuê làm gián điệp hoặc ám sát. Thật không may, những kẻ này tạo thành một dạng "ninja tội lỗi". Những ninja trong sáng tuân thủ quy tắc sống kín đáo của mình còn những ninja tội lỗi lại xuất hiện trước công chúng và hiểu biết của chúng ta về ninja ngày nay bị lệch về phía xu hướng này. Trên thực tế, một cách khiêm nhường các ninja đã làm rất nhiều việc để kết nối gia đình với cộng đồng nước Nhật.
* Bước qua huyền thoại
Ngoại trừ có một thời gian ngắn, trước thời Tokugawa, bị tai tiếng xấu, nghệ thuật ninja sống lặng lẽ trong trái tim của một số người. Ninjutsu đã phát triển thành một nền văn hóa khá độc lập, tồn tại như một dòng chảy ngầm khác biệt so với toàn bộ văn hóa Nhật Bản, xã hội do những samurai phong kiến cai trị.
Trong hàng trăm năm, các gia đình ninja sống trong rừng núi, luyện tập những phương pháp bí ẩn để cố nắm rõ những quy luật cơ bản của thiên nhiên. Lịch sử đã dạy cho họ biết rằng họ phải luôn trong tư thế chuẩn bị để bảo vệ gia đình và cách sống của họ. Họ đã hoàn thiện một hệ thống võ thuật đào tạo ra những chiến binh xuất chúng đáng kinh ngạc mà ai cũng biết đến và đem lại tiếng thơm cho họ.
Danh tiếng của Ninja tỏa sáng hơn khi có một vài sự kiện được làm sáng tỏ. Trước hết là việc Ninja không phải là những phù thủy độc ác như nhiều người vẫn nghĩ. Triết lý sống này trở thành một phần quan trọng trong chiến thuật chiến đấu của họ. Vì vậy, ở đây chúng ta đề cập đến nghệ thuật Ninpo. Chữ "po" nói đến "một trật tự cao hơn" hoặc "chứa đựng một triết lý". Cách thức chiến đấu của samurai được gọi là bushido. Nó phát triển từ một hệ thống những nguyên tắc quân sự dành cho những chiến binh. Triết lý của Ninja cũng mang những giá trị như của Samurai nhưng lại phát triển theo một hướng văn hóa khác, phục vụ vì một mục đích khác.
Đáng tiếc những nhà văn tôn sùng ý thức hệ võ sĩ đạo - bushido thường xây dựng hình ảnh những ninja như những tên tội phạm, những tên lính đánh thuê thiếu suy nghĩ. Vì ninja chịu ảnh hưởng của shugenja chứ không phải là bushi (những người sống theo nguyên tắc của samurai) nên họ bị coi khinh là những người hoang dã. Và người ta thường sợ những gì họ không hiểu nên những bí ẩn siêu nhiên được thêu dệt thành huyền thoại ninja. Thật ra hơn cả những hành động nhẹ nhàng hoặc những kỹ năng ám sát, Ninpo hay thực chất quan điểm của Ninja là phương pháp tự vệ cả về thể xác, tình cảm và tinh thần trước những hiểm nguy phải đối mặt trên đường chiến đấu hướng đến sự khai sáng.
. Ngọc Tú
(Biên dịch từ Sống và nghĩ như một chiến binh @ 1988 Jack Hoban)
|