. Truyện ngắn của Huỳnh Thạch Thảo
Nơi tôi trọ ở cuối con đường đá sỏi và quen em bởi mỗi ngày qua lại chiếc cổng có giàn Hoàng Lan hoa vàng. Em thường cười và nheo mắt tinh nghịch khi thấy tôi cọc cạch chiếc xe đạp cũ mèm, hoen rỉ, rồi gọi: "Này, chàng Đôngkisốt, hôm nay không đến lâu đài…". Chả là, tôi dạy thêm sinh ngữ cho các cậu ấm, cô chiêu ở những nơi cần quản thúc giờ giấc các quý tử trong khu biệt thự ven sông. Một lần, chiếc xe giở trò bệnh hoạn bung xích. Tôi thở dài cuốc bộ ra đầu đường vừa nhẩm tính thời gian lên lớp, vừa canh giờ cho kịp đến kèm hai cô nương và cũng vừa thò tay lục lọi kiếm tiền đi xe ôm thì:
- Này nhóc!
Tôi ngẩng lên. Em rà xe sát cạnh, hếch mũi, buông giọng:
- Cho quá giang đoạn đường, tội nghiệp hiệp sĩ!
Tôi cười. Chuyền túi xách đeo bên người sang tay lái khi em dịch chuyển chỗ ngồi. Vừa đi, tôi vừa quan sát em qua kính chiếu hậu. Khuôn mặt có vẻ hiền thêm nút ruồi nơi cằm lẹm tạo vẻ tinh quái mỗi khi nheo mắt. Em khẽ đập vai: - Ê…
- Gì?
- Chú ý lái xe, cấm nhìn nghe nhóc!
Lại cười trừ và gật cho đến cổng trường. Em bước xuống nheo mắt nhìn tấm bảng và dãy băng rôn quảng cáo chằng chịt, phán thẳng:
- Chào sư phụ, nơi này loa giấy hơi nhiều, bai nhé!
Tôi hơi uất nhìn theo bóng em khuất dần trên con đường xanh bóng cây, lung linh những giọt nắng.
Em ngồi kề bên, chiếc xích đu lắc nhè nhẹ và tiếng hát nho nhỏ. Khoảng vườn đầy bóng cây qua ánh trăng mười sáu với hương dạ lan thoang thoảng, tĩnh lặng. Tôi nhìn em, nhỏ nhắn tóc xõa ngang vai mặt ngước ra phía đường thấp thoáng bóng người qua lại. Tôi hỏi:
- Ê nhỏ!
- Gì nhóc?
- Thế nhỏ tên gì?
Em không nói. Yên lặng một thoáng rồi chỉ ra hàng cây ven đường:
- Đố nhóc biết cây gì?
- Sầu đông.
- Gì nữa?
- Thầu đâu!
Em bật cười khúc khích do kiểu gọi tên loại cây nơi quê tôi rồi lắc đầu nhẹ: "Gì nữa?"
Tôi ậm ờ "Xoan", em gật: "Ừ. Tên đó". Một tuần làm quen tôi được biết tên em và bên ngoài hàng sầu đông đã bắt đầu trổ hoa trắng xen cùng màu tím dìu dịu.
Xoan học y năm ba khi tôi đã năm cuối của Sư phạm Ngoại ngữ. Vào lúc rảnh với xe cà tàng đã được sửa lại, cả hai lang thang cùng khắp. Mũ bê rê xanh da trời, quần Jean bạc nước biển, thêm chiếc áo lửng và cũng chẳng son phấn, Xoan hòa nhập nếp sống của những đứa con trai xa nhà đi học như tôi. Cũng khoái ngồi cơm bụi, uống tí cà phê độn bắp và sửa lưng thẳng thừng khi bị đùa quá đà. Bọn bạn gọi Xoan: "Công chúa lộn sòng". Còn Xoan thì im lặng gật gù dõi mắt theo đám lục bình trôi nổi và buồn buồn nhìn những người cào hến trên bãi sông lúc chiều buông tím sẫm.
Một lần Xoan đến tìm khi tôi đang "rèn" hai cô chiêu trong biệt thự ven sông. Cô chủ lớn ra mở cửa nhìn từ gót đến đầu "Công chúa lộn sòng" rồi mời vào trên lối đi trải sỏi. Tôi giải lao để xuống thì các cô chiêu liền bá vai, ôm cổ ngả ngớn. Thoáng nhíu mày, Xoan lẳng lặng trao tôi cuốn sách đang cầm, rồi từ biệt ra về. Một ngày, hai ngày cánh cổng có giàn Hoàng Lan khép kín. Đến ngày thứ ba, buổi tối nơi vườn nhà, Xoan im lặng trên chiếc xích đu không còn đong đưa. Một chập, khẽ nói: "Anh làm hiệp sĩ thích không?". Tôi đưa chùm sầu đông hết hoa đang ra quả căng mọng bảo Xoan cắn thử. Tôi cũng cắn. Đắng chát, tê tê đầu lưỡi. Xoan nhăn mặt. Tôi nói: "Đắng lắm. Nhưng biết làm sao, sinh viên xa nhà đứa nào…". Xoan vội bịt miệng và đặt nhẹ bàn tay ấm nóng lên tay tôi trong gió rì rào.
Thành phố nơi tôi trọ học đổi mùa và đêm đêm gió lạnh rú rít thổi đến khi bầu trời đen thẫm không vì sao sáng. Tôi đang dịch bản tin cho ba Xoan để kịp lên khung báo và việc đi rèn đã giao cho đứa thất nghiệp khác. Qua các tờ báo Xoan đưa lại, tôi biết quê nhà đang có lũ đầu mùa. Xoan từng mở to mắt lắng nghe tôi kể những cơn lũ ào ạt, sôi réo cuồn cuộn cuốn phăng tất cả trong dòng nước bạc và cũng nhấn chìm tất cả khi ra giữa giòng với gió buốt căm căm và mưa đổ mịt mùng. Sau lũ, vườn nhà xơ xác, đồng ruộng bị cát và phù sa lấp kín, trơ cỏ. Xoan run run nắm tay tôi, cô bé y khoa hay châm chọc thiên hạ và cả tôi cũng chẳng tha với đủ ngôn từ: "Chàng chăn trâu trìu mến" hay "Gã bù nhìn thương yêu". Đang miên man nhớ thì có tiếng gõ dồn dập. Tôi vứt viết chạy vội ra cửa. Nam ào vào giơ cao bức điện thở dồn: "Đọc đi Hải". Tôi đọc vội tờ giấy vi tính không dấu: "Về gấp mẹ mất khi bão. Cậu Sáu". Tiếng Nam âm u bên tai: "Đi. Thằng Khải mua vé tàu trên ga". Nó lục lọi, xới tung rồi nhét lấy nhét để rồi quàng tay sang tôi đưa ra cửa và quay vào dắt chiếc xe cà tàng dìu tôi lên yên dướn người đạp thẳng. Sân ga sáng choang ánh điện, nhóm bạn đưa vội lên tàu. Nam vuốt tóc cài lại áo và nhét vào túi tôi vật gì cồm cộm, nhắc nhỏ: "Bình tĩnh đi Hải". Tàu hú còi giục giã, chuyển dịch và loang loáng ánh điện. Tôi bật khóc.
Quê nhà trơ trọi với ba cơn bão cùng hai cơn lụt đi qua. Lũy tre bao bọc bờ sông rũ rượi, vàng úa và chằng chịt những mẫu vật sót lại treo lủng liểng bay phần phật theo gió. Phía bên dưới nước vẫn ngầu đỏ cuồn cuộn chảy trong mưa bụi âm thầm. Tôi bước vào khoảng sân nhem nhuốc bùn đất, hàng cau héo lá trong chiều mờ tối. Con mực hực lên khi có người lạ và nhận ra tôi nó khẽ rít. Để cho cha hiện ra nơi khung cửa xiêu vẹo đến bên tôi. Nước mắt người thương binh lại chảy: "Con về trễ, mẹ đã lên đồi". Tôi bật khóc, đứa em gái choàng thức chạy ra ôm chặt: "Anh Hai về, mẹ ơi". Hôm sau, tôi lên đồi vắng, những nấm mộ mới lại xuất hiện trải dài trong sương sớm. Phía xa, dòng sông Ba vẫn mênh mang chảy uốn khúc quanh những khóm lau rập rờn, không hề cảm nhận mùa lũ đi qua.
Tôi ngồi bên mộ mẹ đến chiều. Khi về nghe tin nhiều phái đoàn đến xã. Tôi chợt nhớ Xoan, hàng sầu đông ven phố và những đứa bạn chuẩn bị mùa thi. Và Xoan đến, lúc tôi còn đang mơ màng trên võng. Tôi thoáng thấy bóng người hiện ra nơi khung cửa còn ẩm mùi nước ngập lâu ngày thì Xoan khóc, bấu chặt lấy tôi. Tôi vuốt tóc và ôm lấy đôi vai gầy nhỏ, chút mằn mặn chảy lan khi Xoan ngẩng lên, đôi mắt đỏ hoe với làn mi cong sũng nước nhìn tôi. Tôi lắc đầu im lặng.
Buổi chiều, thả bộ trên đồi vắng, Xoan nói khẽ: "Nhỏ đến, thấy bức điện vội lên thì đã muộn. May sao, có đoàn khám về xã…". Qua ngõ rẽ đầu dốc có nhiều bụi sim tím, Xoan nắm tay tôi: "Giờ nhỏ mới thấy tội nhóc". Chờ nhang tàn nơi mộ mẹ, tôi đưa Xoan sang bãi soi trải vàng hoa mướp nhưng giờ là bãi cát trắng phau, chơ vơ lau sậy. Tôi chỉ soi nhà: "Mẹ hay ra đó, lúc nhỏ mình thường vượt sông thăm mẹ". Xoan bíu vai tôi: "Ôi, nhóc". Tôi quay nhìn Xoan, đôi mắt thẳm trong gió chiều lồng lộng và đăm đắm, lần đầu tiên tôi hôn nhẹ lên đó.
Đêm, dọc rìa làng trong gió heo hút và con sông nước chảy rì rào. Xoan đi sát cạnh mờ ẩn trong sương với những vì sao trên đầu le lói. Rồi Xoan nhìn hàng cây trước mắt, những thân cây khẳng khiu trơ cành cụt ngọn, vươn thẳng lên bầu trời đen thẫm, hất ngược về phía hai đứa hình ảnh cô đơn trong dáng cam chịu và đẹp một cách trầm mặc của mùa đông trở về. Xoan dừng lại, tôi trả lời:
- Sầu đông.
- Không, thầu đâu của nhóc…
Tôi dựa vào Xoan để cảm nhận hơi thở nén chặt trong nhịp tim rộn ràng để nghe tiếng thở dài và câu nói thoát ra trong gió:
- Về phố, học lại đi anh?
Tôi lắc đầu: - Năm sau, anh sẽ lên…
Xoan im lặng. Trên đầu hai đứa đã có những giọt mưa đổ xuống và sấm chớp đã rạch nhì nhằng đỉnh núi đá mờ mờ phía xa.
Tôi nhận thư Xoan lúc làng quê đã bắt đầu cuộc sống ổn định. Bức thư và những cánh hoa sầu đông vàng nhạt sau những ngày di chuyển. Tôi ra rìa làng, hàng sầu đông nở hoa trắng, xen kẽ màu tím trải dọc theo triền sông chang nắng và như một bức thảm hiền hòa khẽ chao trong gió. Tôi đặt bàn tay chai sần lên thân cây sầu đông mà Xoan đã từng dựa vào rồi ngẩng mặt nhìn dòng sông xanh thẫm, hiền hòa uốn khúc mà nhớ Xoan với con đường đá sỏi có hàng sầu đông ven phố.
Năm sau, tôi nhập trường lúc Xoan đã sang nước người để hoàn chỉnh chương trình. Để năm sau và năm sau nữa khi tôi trở thành phóng viên của tờ báo do ba Xoan đảm trách thì mỗi năm Xoan luôn gửi thư về trong mùa sầu đông trổ hoa. Tôi trả lời với nhiều hư cấu định hình bởi biết rằng nơi Xoan ở, con đường đã mở rộng và hàng sầu đông cũng chẳng còn.
Tháng ba năm nay Xoan về nước.
Tháng ba mỗi năm. Hàng sầu đông vẫn trổ hoa trắng cùng màu tím nhạt trải dài nơi ngã ba sông quê nhà.
. H.T.T
|