Trường Quốc học Quy Nhơn
17:19', 14/7/ 2003 (GMT+7)

Trước Cách Mạng tháng 8-1945, khu vực miền Trung chỉ có ba trường công lập mang tên Quốc học. Đó là trường Quốc học Huế, Quốc học Vinh và Quốc học Quy Nhơn. Trường Quốc học Quy Nhơn còn có tên gọi là Collège de Quy Nhơn được thành lập từ năm 1921. Trước đó (1920), là trường Pháp-Việt Quy Nhơn đóng tại trường Nữ học cũ (nay là trường Tiểu học Lê Lợi), niên khóa 1921-1922 mở thêm một lớp Đệ nhất niên. Tuy vậy, năm học sau lớp Đệ nhất này ai lên được lớp trên phải ra trường Quốc học Huế học tiếp lớp Đệ nhị niên.

Đến niên khóa 1924-1925 trường chuyển lên trường mới, lấy tên mới là trường Collège de Quy Nhơn (nay là khu vực trường Tiểu học Lê Hồng Phong). Khuôn viên trường khá rộng, nằm ở ngã ba Công Quán-Collège-Ga xe lửa Quy Nhơn, nay là phía nam đường Lý Thường Kiệt-bắc đường Nguyễn Công Trứ. Trước mặt trường là Đại lộ O-Đân-Đan. Niên khóa 1926-1927 trường hoàn chỉnh cấp Cao đẳng Tiểu học và có đủ 10 lớp từ lớp năm (lớp một bây giờ) lên lớp đệ tứ. Đây là trường duy nhất ở Trung-Nam Trung bộ chia ba cấp học toàn bằng tiếng Pháp. Sơ học yếu lược gồm 3 lớp (lớp năm, lớp tư, lớp ba); Tiểu học gồm 3 lớp (lớp nhì đệ nhất, lớp nhì đệ nhị, lớp nhất); Cao đẳng tiểu học gồm 4 lớp (đệ nhất niên, đệ nhị niên, đệ tam niên và đệ tứ niên). Học sinh học hết đệ tứ niên phải thi tốt nghiệp, gọi là Cao đẳng Tiểu học (bằng Thành Chung hay Diplome). Bộ phận đồng ấu của trường được bố trí học ở địa điểm nay là Sở Giáo Dục (đường Trần Phú), do vậy, ngày nay vẫn giữ mối quan hệ lịch sử giữa 3 trường: Quốc học Quy Nhơn-Trung học cơ sở Lê Hồng Phong-Tiểu học Lê Hồng Phong.

Các thầy, cô giáo dạy trường Collège de Quy Nhơn có người Pháp, người Việt, và học trò cũng vậy, lại thêm học sinh người dân tộc thiểu số. Trong trường có khu nội trú, sân vận động, xưởng mộc, phòng thí nghiệm, bệnh xá, thư viện... Trường có khoảng 400 học sinh, chủ yếu người ở các địa phương từ Đà Nẵng đến Phan Thiết và các tỉnh Tây Nguyên.

Là ngôi trường do Pháp lập ra, nhằm đào tạo học sinh ra trường phục vụ cho chế độ thực dân phong kiến, nhưng phần lớn học trò Collège Quy Nhơn lại là những trí thức yêu nước, có tinh thần cách mạng, căm ghét thực dân Pháp. Vì trong bộ phận giáo viên người Việt nhiều người có tinh thần yêu nước tiến bộ, đã truyền cho học trò của mình lòng yêu nước, yêu dân tộc. Vì vậy, trong thời gian từ năm 1925-1930, trong nhà trường đã nổ ra các phong trào yêu nước như đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, bãi khóa phản ứng giáo viên người Pháp có ý khinh miệt người Việt Nam; cổ võ, quyên góp ủng hộ công-nông Nghệ Tĩnh, ủng hộ Cách mạng tháng 10 Nga...

Khoảng tháng 10-1930, chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam của nhà trường được thành lập do ông Lê Văn Bảo làm Bí thư. Từ đó, các phong trào đấu tranh do Đảng lãnh đạo luôn nổ ra với nhiều hình thức và không ít học sinh của trường phải tù đày, hy sinh. Khi Cách mạng tháng 8-1945 thành công, toàn quốc kháng chiến, trường Quốc học Quy Nhơn chuyển sang một giai đoạn mới. Năm học 1945-1946 trường khai giảng năm học đầu tiên dưới chế độ Dân chủ Cộng hòa và sau đó cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, trường phải dời về thôn An Lương, xã Mỹ Chánh (Phù Mỹ), mấy năm sau lại chuyển lên xã Nhơn Phong (An Nhơn) và đổi lại tên là trường Trung học Nguyễn Huệ. Năm học 1950-1951 trường được tách ra làm hai: trường Nguyễn Huệ Nam và Nguyễn Huệ Bắc (Bồng Sơn) và còn tiếp tục dời chuyển theo cuộc kháng chiến. Vào giữa năm học cuối cùng (1954-1955) một số đông giáo viên và học sinh trường Nguyễn Huệ Nam và Bắc đi tập kết ra miền Bắc.

Năm 1955, Mỹ-Diệm tiếp quản miền Nam mở lại trường học. Trên nền trường Quốc học Quy Nhơn cũ (Collège) đã bị lấn chiếm thu hẹp quá nửa, một ngôi trường được xây dựng lên mang tên Trung học Cường Để Quy Nhơn (khu vực trường Lê Hồng Phong cấp I và II ngày nay). Năm 1958, trường Trung học Cường Để mở thêm cấp 3, trường được xây dựng trên khu vực số 9 Trần Phú ngày nay, dạy từ lớp 9 trở lên. Trong hàng ngũ giáo viên và học sinh trường Trung Học Cường Để không thiếu vắng những tấm gương yêu nước, căm ghét giặc Mỹ xâm lược và chính quyền bù nhìn tay sai. Cũng như trong chế độ thực dân phong kiến, trường Quốc học Quy Nhơn phải đào tạo ra những trí thức phục vụ cho chế độ đó, nhưng thực tế đã ngược lại; trong chế độ Mỹ-Diệm và Thiệu sau này, trường Trung học Cường Để đã trở thành điểm bùng nổ các phong trào đấu tranh chống Mỹ-ngụy và không ít giáo viên, học sinh nhà trường là chiến sĩ cách mạng.

Năm 1975, chính quyền cách mạng tiếp quản trường Trung học Cường Để Quy Nhơn và sau đó đổi tên là trường cấp III Quang Trung, rồi Trung học Quang Trung. Đầu niên học 1991-1992, trường được phép mang tên Quốc học Quy Nhơn.

Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, các chương trình dạy theo ý đồ của thực dân Pháp, nhưng trường Quốc học Quy Nhơn đã sản sinh ra nhiều người tài giỏi, những chiến sĩ cách mạng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dựng xây đất nước do Đảng Cộng sản VN lãnh đạo. Không thể ghi hết những thế hệ học trò được học dưới ngôi trường này đã bay cao, bay xa trên nhiều lĩnh vực cuộc sống. Đó là các liệt sĩ Lê Văn Bảo, người Bí thư Chi bộ học sinh đầu tiên của trường Collège de Quy Nhơn; ông Võ Xán; Anh hùng lực lượng vũ trang, liệt sĩ Ngô Lê Tân; nhà thơ-liệt sĩ Trần Quang Long (giáo viên)...; Nguyễn Minh Vĩ, Võ Đông Giang, Thái Phụng Nê, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Nguyễn Xuân Sanh, Giang Nam, Nguyễn Viết Lãm, Võ Hồng, Nguyễn Thành Long; nhà nghiên cứu nghệ thuật sân khấu Mịch Quang, Phạm Hổ, nhà báo Lê Bá Thuyên...; các Giáo sư-Tiến sĩ như Lê Văn Thiêm, Nguyễn Thương, Phan Trường Thị... Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà từ năm 1921, đất Quy Nhơn được chọn để tạo dựng ra trường Quốc học. Dưới thời phong kiến, Bình Định đã có trường Thi Hương với bao lớp sĩ tử lều chõng về đây. Lập ra trường Quốc học Quy Nhơn thực dân Pháp có ý đồ riêng, nhưng thầy trò Việt Nam đã biết phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc để hành động.

Ngày nay, phát huy truyền thống, trường Quốc học Quy Nhơn tiếp tục phát triển để cho ra "lò" những thế hệ học trò có chất lượng kiến thức, đạo đức tốt, để sau này phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước.

. Hữu Vinh

 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Tương đỗ mèo   (13/07/2003)
Căn cứ Truông Mây  (10/07/2003)
Mắm Gành Diêu Quang  (09/07/2003)
Phát hiện một tư liệu quý về danh nhân Đào Duy Từ  (07/07/2003)
Cháo cá rựa  (06/07/2003)
Chim mía Phú Phong  (04/07/2003)
Ông Chảng  (01/07/2003)
Vua Quang Trung với việc dùng chữ Nôm  (30/06/2003)
Nhà thờ Tăng Bạt Hổ  (29/06/2003)
Về bài thơ của vua Càn Long viếng vua Quang Trung và việc xóa nợ "Liễu Thăng"  (27/06/2003)
Về một câu ca dao có liên quan đến phong trào Tây Sơn  (26/06/2003)
Đất Bình Định xưa...  (25/06/2003)
Tây Sơn Vương sửa thành Quy Nhơn  (24/06/2003)
Truyền thuyết, giai thoại về khởi nghĩa Tây Sơn và anh hùng Nguyễn Huệ  (23/06/2003)
Hương cốm Cát Tường  (22/06/2003)