Sử triều Nguyễn ghi: Năm 1771, "Nhạc thiết lập đồn trại ở đất Tây Sơn thượng đạo" (Đại Nam chính biên liệt truyện). Thời điểm đó đã đi vào lịch sử như năm mở đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Tây Sơn thượng đạo là vùng cao nguyên An Khê. Đây là một cao nguyên bằng phẳng với độ cao trung bình 400 mét, có sông Ba chảy qua. Cao nguyên An Khê phía tây giáp với cao nguyên Kontum - Plâycu qua đèo Mang Giang và phía đông thông với vùng đồng bằng qua đèo Mang (đèo An Khê). Có thể coi vùng này như một bậc thang quan trọng giữa đồng bằng và Tây Nguyên. Vị trí và địa hình ấy tạo cho An Khê có một địa bàn chiến lược lợi hại trong tấn công cũng như phòng thủ.
An Khê có đất đai phì nhiêu, có nhiều lâm thổ sản quý, có mỏ sắt, mỏ diêm tiêu, nhiều voi ngựa… Cư dân hầu hết là người Bana và một số nông dân miền xuôi lên khai hoang, buôn bán. Chính quyền chúa Nguyễn có lập trạm thuế cửa nguồn, nhưng nói chung thế lực yếu và không kiểm soát được bao nhiêu.
Do những điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị trên, Tây Sơn thượng đạo nhanh chóng trở thành căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa. Ngay từ đầu, nhân dân An Khê gồm cả người Thượng và người Kinh đã nhất tề hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, góp người, góp sức, góp của xây dựng căn cứ. Đất An Khê còn là nơi tụ nghĩa những người nghèo khổ, những người bất bình, oán ghét chế độ chúa Nguyễn, những người mang nghĩa khí cứu dân giúp nước … tìm về đây tập hợp lực lượng, mưu đồ sự nghiệp lớn.
Trên căn cứ Tây Sơn thượng đạo, hiện nay còn lưu lại một số di tích có giá trị phản ánh việc tổ chức căn cứ địa, những hoạt động của nghĩa quân và sự tham gia, ủng hộ của nhân dân.
Tại thôn An Lũy, xã Phú An Cư tức ấp Tây Sơn Nhất lúc bấy giờ, còn di tích một đồn lũy. Đó là chỉ huy sở của nghĩa quân mà sử sách thường gọi là "chỗ khởi binh của Tây sơn" hay "trại Tây Sơn". Ngày nay phía trên đèo An Khê, còn di tích một khu vực đóng quân của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ với núi ông Bình (một tên khác của Nguyễn Huệ), núi ông Nhạc, chiến lũy và Gò Kho.
Núi ông Bình cao 814 mét, là ngọn núi cao nhất trên đèo An Khê và là một điểm cao lợi hại, khống chế con đường giao thông huyết mạch qua đèo. Núi ông Nhạc thấp hơn và nằm chệch về phía tây nam của núi ông Bình.
Gò Kho là một khu đất cao, tương đối bằng phẳng, rộng khoảng một mẫu, nay thuộc xóm Ké xã Song An. Gò kho nằm dưới chân núi ông Bình, ông Nhạc và phía trong chiến lũy. Tương truyền đó là kho binh lương của Tây Sơn.
Về mặt quân sự, có thể coi cả khu di tích núi ông Bình, ông Nhạc và Gò Kho như một căn cứ quân sự quan trọng nhằm khống chế con đường độc đạo qua đèo An Khê, đề phòng và ngăn chặn những cuộc tiến công của quân Nguyễn từ đồng bằng lên và bảo vệ mặt đông của căn cứ.
Tại xã Tú An có một cánh đồng rộng hàng chục hecta mang tên cánh đồng Cô Hầu. Tương truyền Cô Hầu là một cô gái Bana đã có công cung cấp voi, ngựa, lương thực… cho nghĩa quân và là vợ lẽ của Nguyễn Nhạc (vì vậy gọi là cô Hầu)… Chính cô gái Bana đó đã tổ chức khai phá lập ra cánh đồng cô Hầu làm cơ sở sản xuất nuôi quân.
Ở phía nam huyện An Khê, vùng Bà Giang thuộc xã Bắc Giang, có một hồ thả cá xây bằng đá ong mang tên "hồ ông Nhạc". Gần đấy có một đập nước lớn gọi là "sa khổng lồ", nhân dân địa phương quen nói "sa khổng lồ, hồ ông Nhạc".
Từ căn cứ Tây Sơn thượng đạo, nghĩa quân mở rộng hoạt động trên vùng Tây Nguyên rộng lớn. Thế lực nghĩa quân ngày càng mạnh, ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa này càng lan rộng. Sử triều Nguyễn phải ghi nhận "… đồ đảng ngày càng đông, đưa nhau đi cướp đánh các hương ấp, đến đâu cũng hò reo, hưởng ứng nhau. Thế Nhạc ngày càng hoành hành, quân địa phương không thể chống ngăn được." (Đại Nam chính biên liệt truyện).
Năm 1773, từ đất "đứng chân" vững chắc ở miền núi rừng hiểm yếu, nghĩa quân bắt đầu đánh xuống vùng hạ đạo, phát triển xuống đồng bằng, mở ra một bước phát triển vượt bậc của cuộc khởi nghĩa.
Trên con đường đổ qua đèo An Khê (không phải hoàn toàn như đường 19 hiện nay) còn lưu lại một số di tích và truyền thuyết về cuộc hành quân có ý nghĩa chiến lược của nghĩa quân Tây Sơn.
Đó là Miếu Xá, nơi Nguyễn Nhạc chém rắn làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Đó là cây ké, cây cầy (cây kơ nia) với sự tích "cây ké phất cờ, cây cầy gióng trống", nơi nghĩa quân dừng chân mở hội thề trước khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù. Đó là Hóc Yến và núi Lãnh Lương, nơi Nguyễn Nhạc mở tiệc khao quân và phân phát lương thực cho nghĩa quân …
Bằng lực lượng hùng hậu của mình, và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, nghĩa quân nhanh chóng giải phóng cả vùng Tây Sơn hạ đạo, mở rộng căn cứ xuống vùng đồng bằng.
Chỉ huy sở của nghĩa quân được chuyển về ấp Kiên Thành, nơi chôn nhau cắt rốn của các thủ lĩnh Tây Sơn. Đó là doanh trại của đệ nhất trại chủ Nguyễn Nhạc đóng ở làng Kiên Mỹ.
Từ căn cứ Tây Sơn, nghĩa quân tỏa xuống hoạt động khắp vùng đồng bằng Quy Nhơn. Dưới lá cờ đỏ tượng trưng cho ý chí chiến đấu và khẩu hiệu "lấy của nhà giầu chia cho người nghèo", nghĩa quân đi đến đâu đều được nông dân và các tầng lớp bị áp bức ở đó nổi dậy hưởng ứng.
Chỉ trong vòng mấy tháng, nghĩa quân đã giải phóng toàn phủ Quy Nhơn, chiếm được phủ thành (lúc bấy giờ ở Châu Thành, xã Đập Đá, huyện An Nhơn). Thừa thắng, ngay trong năm 1773, nghĩa quân tiến ra giải phóng phủ Quảng Ngãi. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của cuộc khởi nghĩa. Từ đây, lực lượng chúa Nguyễn ở Đàng Trong bị cắt làm đôi và hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi được giải phóng trở thành một căn cứ rộng lớn, một bàn đạp chiến lược trọng yếu đưa cuộc khởi nghĩa tiến lên những tầm cao mới, giành những thắng lợi mới.
. Ngọc Minh
|