Hát thứ lễ
17:6', 16/3/ 2004 (GMT+7)

Ở Bình Định hầu như vùng nào nhân dân cũng ghiền hát bội. Và có thời mỗi xã, thậm chí có thôn cũng lập được đoàn hát, song được người ta mời đi hát tế, hát thứ lễ thì hầu như không phải đoàn nào cũng được.

Vì nằm gần làng tuồng Nhơn Hòa, gần học bộ đình Vinh Thạnh của Đào Tấn, nên người An Nhơn không chỉ mê mà còn rất rành hát bội. Thường các chức sắc trong vùng, các đại hào, đại phú được lên phẩm hàm, hay mua được chức sắc, làm được nhà lớn hay khấn nguyện mà thành… đều tổ chức hát lễ, còn gọi là hát thứ lễ hay hát án (tên gọi này tùy theo từng vùng mà có). Đầu tiên gia chủ phát giấy mời, chọn ngày giờ dựng rạp, làm lễ hát án.

Một cảnh hát bội tại đình làng

Rạp thường dựng ở ruộng vườn, trước đình trước miễu… nơi có mặt bằng rộng rãi cho dân xem. Mặc dù là dựng tạm, nhưng rạp rất vững chắc, có sàn lát ván, trụ gỗ hoặc bằng gốc tre được trang trí bằng lá cây giả đùng đình.

Ở vùng Đại Chí, xã Tây An, huyện Tây Sơn, xưa có một tốp thợ chuyên đi dựng rạp để hát lễ. Đám hát nào, họ cũng được mời đến trang trí rạp trước, vì có tay nghề cao và mang tính chuyên nghiệp hẳn hoi.

Mặt trước sân khấu là đôi câu liễn đối, tấm nghi môn và hương án đặt sát tấm màn thay cho phông hậu bây giờ.

Thường thì các thứ đồ trang trí như liễn, đối, nghi môn… đều làm bằng giấy, chữ không viết mà kết bằng hạt cườm thảo mọc rất nhiều ở các vùng đồi. Hạt cườm thảo nhỏ như hạt đậu xanh, có hai màu đen, đỏ óng ánh rất đẹp.

Ngay từ giữa buổi chiều, gánh hát đã "tựu án", tức tập hợp đến rạp. Dẫn đầu đoàn hát nhất thiết phải là tốp mẻ đèn rồi mới đến ông bầu và diễn viên, nhạc công. Mẻ đèn là người chuyên lo ánh sáng cho đêm diễn. Ngày xưa không có điện như bây giờ nên mẻ đèn rất quan trọng. Người ta đổ dầu phụng hay dầu dừa vào các mẻ đèn. Mẻ đèn có dạng như chiếc đĩa đáy sâu, to bằng chiếc nón, có quai treo lên bốn cột sân khấu cháy sáng suốt đêm. Người mẻ đèn phải trông coi đèn cho gió khỏi làm tắt, nếu hết dầu thì châm thêm để đêm hát khỏi bị "cúp điện". Sau này có đèn măng sông, đèn dầu, đèn khí đá rồi đèn điện tiện lợi hơn nhiều.

Sau khi tựu hát, ban hát cử người ra tham gia buổi cúng tế và chuẩn bị lễ vật (gồm 3 con gà và hoa quả) để cúng tổ hát bội trước khi hát. Bàn thờ tổ hát bội, đặt ngay sau tấm màn thùng, nơi dành cho diễn viên hóa trang trước khi ra sân khấu. Để tham gia phần tế lễ, thường là 2-4 diễn viên hóa trang và phục trang mũ mão riêng, đứng hai bên sân khấu. Gia chủ quì chính giữa án thờ và làm lễ theo sự hướng dẫn, hô xướng của người học trò lễ.

Trên hương án được bày biện mâm cổ thường là heo quay, gà vịt, hoa quả để cúng tế.

Người ta quan niệm hát thứ lễ là rất thiêng, nên công việc cúng tế cũng được tiến hành khá nghiêm cẩn.

Ngoài học trò lễ, còn có một thầy lễ đứng bên cánh gà để nhắc học trò lễ hô vang các hiệu lệnh cho gia chủ hành lễ. Ban nhạc tùy theo tiếng hô mà tấu theo cho tăng phần long trọng.

Khi phần lễ đã xong, bên trong diễn viên đã chuẩn bị sẵn sàng thì người học trò lễ hô lớn: "Ca công tựu án tiền khởi võ" thì tất cả đều dạ ran, chánh tế khởi chầu, rồi trống quân tiếp ứng, ông bầu hát ra đọc lời chúc phúc, xong trống chầu nổi lên hồi khai trường.

Tùy theo mùa mà hồi khai trường được đánh khác nhau. Nếu buổi hát lễ diễn ra vào mùa xuân thì đánh 3 tiếng, mùa hạ đánh 9 tiếng, mùa thu thì 7 tiếng, mùa đông 5 tiếng; người ta gọi là "xuân tam, hạ cửu, thu thất, đông ngũ". Như vậy tiếng trống khai trường được quy định cho từng mùa, mang ý nghĩa biểu tượng đặc điểm tốt đẹp của mỗi mùa.

Khi tiếng trống chầu khai trường vừa dứt thì dàn nhạc hát bội nổi lên, chuẩn bị không khí buổi diễn cho người xem và cho diễn viên. Theo nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn thì "bản nhạc rao" này của dàn nhạc hát bội tuy không nhiều nhạc cụ mà rạo rực, rộn rã thúc giục lòng người ngang âm lượng của một dàn nhạc Tây lớn.             Khi nhân vật Quan Công ra đến giữa sân khấu thì tất cả khán giả đều đứng dậy nghiêm trang. Người ta đốt một tràng pháo lớn để "mừng ông". Pháo dứt tất cả mới ngồi vào vị trí, trên sân khấu bắt đầu cất tiếng hát.

Vở diễn hát thứ lễ thường là những vở bổn trong pho tuồng "Tam quốc" như: Cổ thành, Tam chiến Lã Bố, Hoàng Phi Hổ, Phụng Nghi Đình, Hộ Sanh đàn… Ở một số vùng thì vở Cổ Thành phải là vở chính trong hát thứ lễ.  

Sau phần kết thúc vở diễn bao giờ cũng có màn tôn vương. Màn này nhiều khi không liên quan gì đến vở tuồng đang diễn, vì nó chỉ để chúc tụng đất nước thịnh vượng, làng xóm, gia chủ may mắn, phúc lộc đề huề. Cảnh sân khấu là buổi thiết triều vua sáng tôi hiền với bá quan văn võ, long hổ hội chầu.

Dứt tiếng hát, chầu giữa bên ngoài đổ một hồi, bên trong tiếp 3 tiếng trống lệnh chấm dứt phần hát thứ lễ.

Sau khi giải lao ít phút, đoàn hát tiếp tục hát cho dân xem. Các vở diễn ở phần này, tùy theo yêu cầu của gia chủ, song thường là những vở kết thúc có hậu, ít cảnh máu chảy binh đao... Nhiều khi hát thâu đêm suốt sáng, kể cả ngày lẫn đêm. Vì thế có chuyện trẻ con ngủ quên trước rạp hát, sáng ra thức dậy dụi mắt coi tiếp là thường.

Trên sân khấu, diễn viên chia ca ra mà hát, bên dưới, khán giả vừa xem, vừa bình phẩm, vừa ăn uống, đánh chén.

Khán giả có hai loại. Loại bình thường thì xem tự do rồi ai về nhà nấy. Loại có thiếp mời, đi dự thì được gia chủ bố trí chỗ ăn nghỉ. Thiếp mời viết trên giấy "hồng đơn". Khách được mời đến "coi hát" thường có tiền để "lại lễ" cho gia chủ.

Các vị khách đặc biệt thường được mời cầm chầu, thường là một đến ba người bố trí ở chầu giữa, và hai chầu chái đặt hai phía diễn viên, sát sân khấu. Người cầm chầu thường là chức sắc, lão làng nhưng nhất thiết phải là người biết đánh chầu. Vì tiếng trống chầu trong hát bội là một bộ phận của dàn nhạc, hơn thế nữa, nó còn là nhạc trưởng, là nhà phê bình trực diện của buổi hát.

Việc nhận tiền thù lao của ban hát bội thường có hai cách theo thỏa thuận. Một là gia chủ trả một khoản có chừng. Còn ở các đám hát thứ lễ của xóm, làng, đình miễu… thì hát thưởng. Đoàn hát hay thì thưởng nhiều, hát dở thưởng ít. Các buổi hát thưởng được khán giả xem đông hơn vì theo "cơ chế thị trường" khá rành mạch. Còn buổi hát khác thì do hát hay cũng vậy, dở cũng vậy cho nên nhiều khi diễn viên không nhiệt tình trong biểu diễn.

Trước kia, hát thưởng thường có thẻ bằng tre sơn một đầu đỏ, mỗi thẻ qui ra bao nhiêu tiền có chừng. Sau này không dùng thẻ mà dùng tiền lẻ cột thành xâu đặt cạnh người cầm chầu giữa.             Nếu hát hay, đúng cách thì tùy theo tiếng trống mà ném tiền lên sân khấu nhiều hay ít. Khán giả xung quanh nhiều khi hứng chí còn rút tiền "thưởng" lên sân khấu trong tiếng trống "khen" đổ hồi thúc giục. Nếu hát sai tuồng, lỗi điệu thì bị ăn tiếng gõ "tang" vào tang trống đến ê mặt của người cầm chầu.

Hát bội độc đáo và say mê như vậy cho nên nó trở thành một nét văn hóa thấm đẫm trong sinh hoạt dân gian của người Bình Định:

Bầu Đông đóng Lý Phụng Đình

Dẫu chồng có đánh thì mình cũng đi

Ngày nay, ở Bình Định có gần mười đoàn hát bội không chuyên và Nhà hát tuồng Đào Tấn được nhà nước bao cấp trả lương, song những đêm hát bội như ngày xưa thì đã vơi dần. Đến độ xuân kỳ, thu tế mới có vài đêm hát án ở các làng chài trong lễ cầu ngư hoặc lễ Vía Bà ở xã Nhơn Phong, lễ hội Nước Mặn ở Phước Quang - Tuy Phước… Còn lại là những buổi công diễn, song khán giả không còn đông đúc hồ hởi như xưa.

. Mai Thìn

 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Cá chẻm Thị Nại   (15/03/2004)
Vị tướng Xênêgan mang dòng máu Việt  (14/03/2004)
Nón ngựa   (12/03/2004)
Hát hò dân gian vào những đêm trăng xưa   (11/03/2004)
Con cua nước lợ   (09/03/2004)
Nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8-3: Kỷ lục của phái… yếu  (07/03/2004)
Những nữ tướng của Việt Nam  (05/03/2004)
Tây Sơn thượng đạo   (27/02/2004)
Phủ Thành Quy Nhơn  (26/02/2004)
Núi Mò O - thắng cảnh độc đáo của An Nhơn  (25/02/2004)
Thăm chùa Bộc, nơi thờ anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ   (24/02/2004)
Lễ hội "Đô thị Nước Mặn"  (23/02/2004)
Lễ hội chùa Linh Phong  (17/02/2004)
Lễ cưới hỏi của người Bình Định xưa  (13/02/2004)
Xuân về thăm bến Trường Trầu  (11/02/2004)