Tục nhuộm răng ăn trầu của người Bình Định xưa
16:47', 22/3/ 2004 (GMT+7)

Ở An Nhơn nói riêng, Bình Định nói chung, thời trước hầu như ai cũng ăn trầu. Hồi ấy, con trai, con gái tới tuổi thành niên thường bắt đầu ăn trầu, con trai thì có thêm tục hút thuốc, đàn bà con gái chỉ ăn trầu chứ không hút thuốc. Nhà nào cũng trồng một vài cọc trầu và cây rễ trong vườn. Dây trầu bò lên cây cau, cây dừa hoặc cây bồ ngót tàu.

Cây rễ cao, lá thuôn dài, cành suông. Khi ăn, người ta chặt cành, bóc vỏ đánh thành nài (như nài cày, nhưng nhỏ hơn) rồi đem thui lửa, phơi khô dùng dần. Nếu hôm nào đi chợ quên mua rễ, người ta hái nụ hoa chim chim ăn tạm thay rễ. Khi ăn trầu, người ta dùng vôi quết nhẹ lên mảnh lá trầu tươi đã cắt xéo (thường là 1/2 hoặc 1/4 lá), gập lại cho vôi nằm ở giữa rồi bỏ vô miệng nhai. Vôi ăn trầu là vôi chín màu đỏ hồng, hay trắng. Ăn trầu nhất thiết phải có vôi, không có vôi trầu không đỏ, không nồng, vị nhạt như nước ốc, bởi thế ca dao có câu:

Có trầu, có vỏ không vôi

Có chăn có chiếu không người nằm chung

Vôi trong trường hợp này cũng quan trọng như "người nằm chung vậy". Và cũng có lẽ do đặc điểm nồng cay quan trọng ấy, mà người ta còn ví vôi với "nghĩa", với "tình":

Trầu xanh, cau trắng cay nồng

Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.

(Ca dao)

Hoặc:

Anh về em đưa miếng trầu

Miếng thương miếng nhớ miếng sầu anh ơi

Quệt vôi em quệt cả lời trăm năm

(Ca dao)

Để có miếng trầu ngon, ngoài cách têm trầu cho đẹp, cho khéo còn phải biết cách quệt vôi sao cho vừa ăn. Nếu quệt nhiều, miếng trầu cay xé, quệt ít thì không đủ nồng:                               

Tội tình thiếp lắm chàng ơi

trầu ăn không đỏ vì vôi quệt già

(Ca dao)

Dụng cụ để quệt vôi gọi là cái chìa vôi. Bình vôi loại thường thì dùng bằng chìa tre, dài hơn cây bút bi vót tròn; bình vôi sang thì dùng bằng chìa sắt. Có khi chìa vôi cột chung với lưỡi dao để rọc trầu, gọi là dao ăn trầu. Dao này thường có chuôi nhọn như mũi tăm để vừa rọc trầu, vừa têm trầu, hoặc rọc lá làm nón chứ không dùng vào việc khác.      

Bình vôi có nhiều loại, thường làm bằng đất nung, sau bằng sứ, bây giờ thì đựng vào những lọ nhựa, lọ thủy tinh cho tiện nhưng không đẹp.

Bình vôi được gọi một cách trân trọng là "ông bình vôi". Khi ông bình vôi vỡ, hỏng hoặc đầy vì vôi chết trong ruột không cạy được, người ta không vứt đi mà trang trọng đặt ở gốc đa, gốc bồ đề trong làng, nơi thường để những ông táo, lò vỡ, hỏng.

Để có vị chát và giảm bớt chất cay nồng của trầu và vôi, người ta cắn một mẩu rễ và lát cau tươi; nếu là cau khô thì phải ngâm kỹ trong nước cho mềm. Tất cả nhai chung trong miệng cho đến khi nước cốt có màu đỏ bầm như máu, hương thơm nồng ải rất dễ chịu.

Để tăng thêm vị đậm đà, người ta còn dùng thuốc rê (lá thuốc xắt thành sợi nhỏ), vo thành viên nhỏ như viên bi, lăn qua lăn lại nơi hàm răng, vừa để chặn nước cốt trầu không chảy ra ngoài, vừa tăng cảm giác ngon miệng. Có người bận tay thường nhét viên thuốc rê dưới môi trên (giữa răng và môi) để làm việc khác, thuận tay dùng ngón trỏ và ngón cái vuốt hai mép cho sạch nước cốt trầu (còn gọi là cổ trầu). Vì ăn trầu thường phải nhổ nước cổ trầu (có người nuốt luôn vào bụng) nên nhà nào cũng sắm một hai ống nhổ bằng đất hoặc bằng đồng có trang trí hoa văn rất đẹp.

Các loại trầu, cau, thuốc, rễ đựng trong cơi trầu bằng tre, nhỏ xinh như chiếc rá gạo bây giờ. Chiếc cơi trầu cũng đi vào ca dao bằng lời tỏ tình rất dễ thương của chàng trai trẻ:

Ước gì anh hóa ra cơi

để cho cơi đựng cau tươi trầu vàng

ước gì anh cưới được nàng

mai sau anh trả lại nàng đôi mâm.

Ngoài cơi trầu, còn có đãy trầu. Khi đi ra ngoài, thì có đãy trầu bằng vải luôn dắt theo người, gặp ai cũng lấy ra mời như người ta mời thuốc lá bây giờ. Các ông, các bà không có đãy trầu thì bỏ đại vào hai túi áo vạt hò, áo bà ba hoặc trong yếm để khi ra đồng có cái ăn đỡ thèm. Vì thế túi áo ai cũng sẫm màu cổ trầu, đặc biệt là hai ngón tay trỏ và tay cái.

Miếng trầu đã trở thành vật giao duyên khá độc đáo của các chàng trai cô gái:                  

Yêu nhau trao một miếng trầu

Giấu thầy giấu mẹ trao sau bóng đèn.

(Ca dao)

Hoặc:

Đêm trăng thiếp mới hỏi chàng

Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không?

Trầu vàng nhá với cau xanh

Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

Người già răng yếu, khi ăn trầu dùng ống xoáy trầu nghiền cho dập trầu cau, rễ trong xoáy trước khi dùng. Ống xoáy làm bằng gỗ, sau bằng đồng, thời chiến tranh làm bằng vỏ đạn đại liên to bằng ngón chân cái, cưa bớt phần ngọn, còn phần đáy cao độ ba bốn phân. Để có cây giã trầu, người ta cắt một đoạn thép gai dài bằng cây bút bi đập dẹt một đầu, đầu kia uốn vòng tròn để dễ cầm và xỏ dây cột vào đáy ống xoáy cho khỏi thất lạc. Sau khi trầu, cau, rễ được bỏ vào ống xoáy, người ăn trầu dùng cây sắt chọt vào ống cho dập trầu, làm mềm rễ, cau rồi mới cho vào miệng ăn.

Khi ăn trầu, răng lợi thường dính cốt trầu đen xỉn, nên đàn ông, đàn bà đều đi nhuộm răng. Có được hàm răng đen bóng như hạt huyền là điều mơ ước của nhiều người. Người ta quan niệm răng càng đen, càng đẹp, nhưng càng về sau, tục ăn trầu giảm dần, chỉ còn những bà cụ già, còn đàn ông thì chuyển sang hút thuốc ngon hơn. Vì thế, tục nhuộm răng ở Bình Định càng về sau càng mất dần, và khi văn hóa phương Tây du nhập thì không còn ai nhuộm răng và cũng ít người ăn trầu, chỉ sót lại vài cụ bà đã trên bảy tám mươi tuổi.

Ở Nhơn Thành, số người nhuộm răng, ăn trầu hiện còn rất ít như cụ: Mai Xuân Lang, Năm Lư, Trần Thị Ba, Lê Thị Hợi, Nguyễn Thị Lạc, Huỳnh Thị Hạ… đều đã trên tám mươi tuổi.

Nhờ ăn trầu có vôi và trầu cau, thuốc, rễ có vị cay, chát sát trùng nên răng cụ nào cũng khá tốt dù chưa bao giờ dùng bàn chải và thuốc đánh răng như lớp trẻ bây giờ. 

. Mai Thìn

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Lễ cầu ngư ở Gò Bồi  (21/03/2004)
Cháo cua huỳnh đế - Bình Định  (19/03/2004)
Thành Bình Định   (18/03/2004)
Nghề thợ mộc và chạm khảm ở Nhơn Thành   (17/03/2004)
Hát thứ lễ   (16/03/2004)
Cá chẻm Thị Nại   (15/03/2004)
Vị tướng Xênêgan mang dòng máu Việt  (14/03/2004)
Nón ngựa   (12/03/2004)
Hát hò dân gian vào những đêm trăng xưa   (11/03/2004)
Con cua nước lợ   (09/03/2004)
Nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8-3: Kỷ lục của phái… yếu  (07/03/2004)
Những nữ tướng của Việt Nam  (05/03/2004)
Tây Sơn thượng đạo   (27/02/2004)
Phủ Thành Quy Nhơn  (26/02/2004)
Núi Mò O - thắng cảnh độc đáo của An Nhơn  (25/02/2004)