Bệnh AIDS: Phòng là chính
16:42', 26/11/ 2003 (GMT+7)

Kể từ khi thế giới phát hiện ca nhiễm virus HIV đầu tiên - tác nhân gây bệnh AIDS - đến nay, lĩnh vực nghiên cứu tìm thuốc cho căn bệnh nguy hiểm nhất trong thế kỷ và cả thế kỷ XXI chưa có gì lạc quan. Ở các thế kỷ trước việc tìm ra tác nhân gây bệnh rất khó khăn, vì chưa có những trang thiết bị hiện đại nên có thể kéo dài hàng nhiều năm, nhưng khi tìm được nguyên nhân bệnh thì việc tìm ra thuốc chữa khá dễ dàng. Đối với AIDS, việc tìm ra tác nhân gây bệnh khá nhanh, chỉ sau hai năm từ khi phát hiện nạn nhân AIDS đầu tiên, người ta đã xác định được thủ phạm là một loại virus có tên HIV nhưng cho đến nay việc nghiên cứu, tổng hợp để tìm được thuốc trị liệu có hiệu quả, tiêu diệt hoàn toàn HIV vẫn còn ở phía trước.

Khoa học không bó tay và đã tổng hợp được trên 10 loại thuốc có khả năng khống chế sự phát triển của HIV nhằm kéo dài cuộc sống cho các bệnh nhân. Viên thuốc đầu tiên ra đời chính là AZT (Zidovudine, Retrovir). Chúng ta nên biết, HIV khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ tấn công tế bào bạch cầu trong máu. Khi đã gắn vào trong các tế bào này rồi, HIV sử dụng men do chúng tiết ra để tăng trưởng và phát triển. Đó là hai loại men: men phiên mã ngược đảm nhận việc sao chép mã di truyền giúp HIV sinh sản, men phân giải đạm giúp HIV tăng trưởng. Nhờ hai men này mà từ một sẽ được nhân lên thành nhiều con HIV mới. Do phải gánh chịu sự phát triển này mà bạch cầu từ chỗ làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh bên ngoài xâm nhập vào dần dần bị kiệt quệ và mất khả năng đề kháng đưa đến hội chứng suy giảm miễn dịch giúp cho các bệnh cơ hội như: lao phổi, zona (dời leo), tiêu chảy, ung thư da… dễ dàng tấn công vào gây tử vong.

Từ sự hiểu biết đó, các nhà khoa học đã nhận định: Nếu tìm cách ức chế hai loại men nói trên hy vọng virus HIV không phát triển và có khả năng cải thiện tình trạng bệnh. Hiện nay đã có hai nhóm thuốc được sử dụng để điều trị. Nhóm một: Thuốc ức chế men phiên mã ngược bao gồm: AZT, Videx, Hivid, Stavudine, Epivir. Nhóm hai: Thuốc ức chế men phân giải đạm gồm: Indinavir, Norvir, Nelfinavir. Phác đồ điều trị là phối hợp bộ ba: hai thuốc ức chế men phiên mã ngược phối hợp với một loại thuốc ức chế men phân giải đạm, ví dụ như sử dụng AZT và Videx cùng với Indinavir, trong trường hợp phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV chỉ được dùng phác đồ duy nhất là AZT để tránh tình trạng lây từ mẹ sang con.

Nhưng ngay cả phác đồ điều trị mới nhất: phối hợp bộ ba vẫn cho kết quả điều trị rất khiêm nhường, chỉ làm giảm một số triệu chứng, bệnh chậm tiến triển, kéo dài thêm sự sống của bệnh nhân. Điều đáng lưu ý là tất cả các thuốc sử dụng điều trị đều gây tác dụng phụ như: thiếu máu, viêm tụy cấp… và chi phí điều trị rất cao nên chỉ có thể áp dụng cho bệnh nhân các nước tiên tiến còn nước ta chỉ có thể sử dụng một loại AZT nhưng không phải tất cả người nhiễm đều có điều kiện sử dụng.

Khoa học ngày nay phải thừa nhận: AIDS cực kỳ nguy hiểm vì chưa có thuốc ngừa và điều trị hữu hiệu, nên biện pháp phòng chống AIDS tốt nhất vẫn là: hiểu biết đúng đắn về AIDS, tích cực phòng bệnh, luôn luôn sử dụng bao cao su đúng cách và sống thủy chung một vợ một chồng.

DS NGỌC HÒA

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Mùa lạnh, nói chuyện cảm lạnh  (25/11/2003)
Biển và sức khỏe  (24/11/2003)
9 dấu hiệu báo động bệnh ung thư   (23/11/2003)
10 cách để ngủ ngon  (21/11/2003)
Bệnh thương hàn  (20/11/2003)
Để cuộc sống đơn giản hơn  (19/11/2003)
Phòng chống tác hại thuốc lá – còn lắm gian nan  (18/11/2003)
2 nguyên nhân dẫn đến sa sút trí tuệ   (17/11/2003)
Bước đột phá trong điều trị ung thư   (16/11/2003)
Cà phê có thể chống lại ung thư đại tràng   (14/11/2003)
Chiết xuất từ trà xanh có thể ngăn ngừa virus HIV   (13/11/2003)
Rượu – độc hại khó lường  (12/11/2003)
Chín nguyên tắc chi tiêu thông minh   (11/11/2003)
Ăn giấm, chanh có giảm được béo?   (10/11/2003)
12 bí quyết ngăn ngừa bệnh đau đầu   (09/11/2003)