Tôi sinh ra và lớn lên khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy hy sinh gian khổ. Quê tôi ở Ân Tín, Hoài Ân (nay tách ra thành xã Ân Mỹ) bị Mỹ ngụy kìm kẹp rất gắt gao, cả xã có tới 3 địa điểm bị địch chốt giữ: đó là đồi Thánh Giá, trung tâm thôn Mỹ Thành và đầu cầu Bến Muồng. Cầu Bến Muồng cách nhà tôi khoảng 500 mét, có hai trung đội Mỹ dã chiến đóng. Ban ngày, chúng kéo đi lùng sục bắt bớ, chỉ điểm cho pháo địch từ các điểm cao bắn xuống làng. Ban đêm, chia từng tốp nhỏ đi rình mò phục kích. Gia đình tôi thuộc diện chúng nghi ngờ nên đêm nào chúng cũng kéo đến phục kích. Sáng ra tôi thường thấy quanh nhà đầy vết giày đinh.
Tuổi thơ tôi lớn lên đầy gian nan, sóng gió. Tôi được ông thầy trong làng dạy cho biết đọc biết viết rồi phải nghỉ học. Ngày ngày tôi đội chiếc nón cời, quần áo cộc lốc vá víu, chân không dép không giày, người gầy đen như cây sậy, tóc đỏ hoe, khét lẹt vì nắng theo lũ bạn đi chăn bò. Tiếng máy bay trinh sát L19 kêu vo vo, tiếng trực thăng phành phạch quầy đảo trên đầu, rồi máy bay chiến đấu kéo đến gầm rú, bắn phá. Những cột lửa, cột khói cuồn cuộn bốc cao. Tiếng người kêu gào thảm thiết. Không ngày nào không nghe tin có người bị chết: người bị dính mảnh pháo, người bị địch thủ tiêu, có chị bị hàng chục tên lính Mỹ làm nhục trở về phát điên rồi chết. Chiều chiều, lũ con gái lớn chúng tôi rủ nhau đi các nơi khác an toàn hơn ngủ qua đêm sáng mới dám về nhà.
Năm 1966 cha tôi không may bị bệnh nan y, thuốc men không có nên mất sớm. Lúc đó tôi mới 12; hai đứa em trai đứa lên 6, đứa mới 3 tuổi. Thế là tôi trở thành trụ cột của gia đình. Nhà có 6 sào ruộng thì từ cuốc, bang, cấy gặt đến vò, phơi đều do tôi cáng đáng cả. Tôi còn lên tận nguồn An Lão mua chịu trầu cau, chở xuống Bồng Sơn bán rồi mua mắm, muối, bột ngọt, đồ hộp chở lên nguồn. Mỗi lần mua hàng đều bị địch lục lọi kiểm soát rất gắt gao song nhờ nhanh trí cất giấu nên tôi đều đi qua trót lọt. Mẹ bảo tôi mua rất nhiều vải ni lông, dây dù, thuốc tây về làm gì, đưa đi đâu tôi không rõ.
Một lần mẹ bảo tôi cùng mẹ gánh phân ra ruộng. Đến nơi, mẹ moi trong giỏ phân ra nào là thuốc men, võng dù, nào là mắm muối rồi cất giấu ở bìa rừng ngay cạnh ruộng. Tôi ngạc nhiên hỏi thì mẹ nói nhỏ: "Để đấy, ban đêm sẽ có người đến lấy". Mẹ còn dặn kỹ là không được nói với ai. Tôi lờ mờ hiểu rằng mẹ là cơ sở bí mật, được giao nhiệm vụ tiếp tế, liên lạc cho cách mạng. Sau này tôi còn biết thêm chú Sáu Xẻn, anh Hai Giảng, chú Tám Cẩm, anh Tám Mai cũng là người của cách mạng. Đó là những người mà tôi vô cùng khâm phục, kính trọng.
Cuối năm 1971, thấy tôi có nguy cơ bị địch phát hiện bắt bớ, những cán bộ bí mật của xã là chú Sáu Xẻn, anh Tám Thạnh đã bố trí cho tôi cùng một số thanh niên trốn lên rừng thoát ly theo cách mạng. Tôi được biên chế vào Huyện đội Hoài Ân sau đó vào phòng Hậu cần Tỉnh đội Bình Định.
Khi làm nhiệm vụ nuôi quân, ba chị em tôi phải thay phiên nhau dậy từ 1 giờ sáng mới kịp cơm nước cho 150 người trong đơn vị. Tiêu chuẩn mỗi người chỉ có non 2 lạng gạo còn lại ăn độn với củ mì. Khi làm nhiệm vụ đi mua hàng, nhận hàng, tôi thường phải gùi sau lưng trọng lượng hàng 60-70 kg vượt qua sông, qua dốc từ 6 giờ tối đến 2 giờ sáng mới về tới đơn vị. Hôm nào cõng mắm muối, dầu hỏa thì cực vô cùng, bị xóc do đi đường, nước mắm nước dầu chảy ra ngấm vào lưng vào da thịt nóng bỏng phồng rộp như có lửa đốt. Đã vậy dọc đường còn thường xuyên bị pháo địch bắn chặn, bị trực thăng phát hiện truy đuổi.
Vất vả, hiểm nguy nhưng cuộc sống trong quân ngũ đã rèn luyện tôi có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đồng đội và ý chí vượt qua mọi khó khăn, tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.
Rồi cái ngày mong đợi ấy cũng đến: năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Tôi được về sum họp đông đủ với gia đình rồi sau đó được đi học BTVH hết cấp 2 về làm công tác thư viện trường học…
Thấm thoát đã 30 năm kể từ khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Bộ mặt quê hương, cuộc sống mỗi con người đã thay đổi nhiều quá, con đường liên huyện nối các thôn đã được đổ bê tông. Hai bên đường nhà cửa quán xá mọc lên san sát đông vui, nét mặt ai cũng đầy tự tin và phấn chấn. Lớp bạn bè năm xưa giờ đã ở tuổi 50, nhiều người có con là sĩ quan, kỹ sư, bác sĩ, cán bộ lãnh đạo. Gặp nhau ai cũng tay bắt mặt mừng. Chúng tôi cùng nhắc lại những kỷ niệm kháng chiến. Lớp cha chú đã dìu dắt chúng tôi đi theo cách mạng năm xưa như chú Sáu Xẻn, anh Tám Thạnh không còn nữa. Tôi bỗng ân hận và tự trách mình vì mải bận công tác, bận gia đình mà ít về thăm quê hương.
Nhưng quê hương làm sao tôi có thể quên! Đó là nơi tôi chôn rau cắt rốn. Mảnh đất ấy thấm bao mồ hôi máu xương của bao thế hệ. Quê hương nâng bước tôi đi, dìu dắt tôi lớn khôn để từ một cô bé thất học lam lũ, nơm nớp dưới bom đạn kẻ thù trở thành công dân của đất nước tự do, độc lập, làm chủ cuộc đời mình và vươn tới một tương lai tươi sáng.
. Trần Thị Thu |