Từ khi biết làm bốn phép tính đến lúc bước chân vào trường đại học, không ai là không có những kỷ niệm sâu xa về đời học trò. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là những năm học ở bậc tiểu học, mỗi lớp một thầy dạy đủ các môn. Nhân cách của chúng ta chủ yếu được hình thành từ bậc học này với tình thầy trò cao cả, tình phụ tử, tình mẫu tử thiêng liêng, tình bạn bè thân thiết như anh em ruột thịt…
Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng dấu ấn Trường Tiểu học An Lương làng tôi những năm cuối thập kỷ 30 đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước vẫn còn in đậm nét trong ký ức tôi.
Ôi, Trường Tiểu học An Lương làng tôi năm xưa!
Đó là một ngôi trường khang trang gồm 6 phòng học, tường gạch, mái ngói đứng hiên ngang trên một khu nền cao ráo, mặt nhìn ra đường tỉnh lộ Phù Mỹ - Đề Gi. Trước và sau trường có sân chơi tuy không rộng lắm, nhưng cũng đủ để cho hơn 200 học sinh tha hồ đùa nghịch. Ở một góc sân trường phía trước có một cây bàng cổ thụ xum xuê cành lá. Những giờ ra chơi, học sinh chúng tôi tụ tập dưới bóng mát quanh gốc cây bàng, kẻ đá kiện, nhảy dây, người đánh bi, đánh đáo, ném vụ… Học sinh lớn thì rủ nhau đá banh ở sân trường phía sau.
Thời ấy, chúng tôi học mỗi ngày hai buổi, thứ năm, chủ nhật được nghỉ. Thầy dạy rất nghiêm nhưng cũng thương yêu học trò hết mực. Tôi nhớ mãi hình ảnh chị H…, con thầy hiệu trưởng một trường tiểu học ở Quy Nhơn, vì không thuộc bài nên bị thầy Phục (quê Phù Cát) bắt nằm dài trước học sinh để đánh đòn. Tuy rất đau và xấu hổ, nhưng chị cố chịu đựng. Ăn đòn xong, chị đứng dậy lễ phép cúi chào xin lỗi và hứa với thầy sẽ cố gắng học giỏi. Thầy Phục xoa đầu cô nữ sinh và ân cần khuyên "Phải cố học giỏi để xứng đáng là con của nhà giáo, nghen con! ".
Hồi ấy, chúng tôi không hề biết học cua, học kèm là gì. Những học sinh nào học yếu thì đến nhà bạn học khá hơn để nhờ chỉ dẫn, giúp đỡ. Học sinh nào bạo phổi thì đến nhà thầy để hỏi những điều mình chưa hiểu. Các thầy đều ân cần giảng giải. Thầy hiệu trưởng không có nhà riêng mà cả gia đình đều ở tại một căn phòng nhỏ rộng hơn 20m2 nằm ở một góc phía sau trường. Các thầy khác thì ở trọ tại nhà dân. Những ngày thứ năm và chủ nhật, anh Nguyễn Đình Tứ thường rủ tôi đến chỗ anh để cùng nhau giải các bài toán khó, đánh cờ tướng và làm thuyền buồm có động cơ cho chạy trên mặt hồ nuôi cá cảnh. Có lần Tứ khuyến khích tôi cùng giải một bài toán đại số lớp đệ tứ niên Trường Collège de Quy Nhơn mà anh Tiếp, cháu thầy Tài, hiệu trưởng nhà trường gửi về nhờ cậu giải hộ. Tôi còn nhớ mang máng câu đầu của bài toán: Deux canons lances des aubus dans une ville assiégée… (Hai khẩu đại bác bắn vào một thành phố bị bao vây…)… Tứ giải bằng đại số, tôi giải bằng số học. Giải xong, Tứ đưa cho cha xem lại. Thầy Tài khen cả hai cách giải đều đúng. Chúng tôi vô cùng phấn khởi.
Năm học 1943-1944, ba học sinh giỏi của lớp nhất (Tứ, Đương và Hoàng) được trường cử đi thi học sinh giỏi toàn tỉnh (concours général). Anh Huỳnh Đương và tôi mang dép cao su đi bộ từ An Lương vào Quy Nhơn phồng cả hai bàn chân. Năm học 1944-1945, Trường Tiểu học An Lương có 4 học sinh (một nữ) thi đỗ vào Trường Collège de Võ Tánh (Collège Quy Nhơn đổi tên). Đây là một tỷ lệ cao nhất so với các trường tiểu học trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Tứ và tôi thi đỗ cao nên được cấp học bổng toàn phần.
Thời bấy giờ, các trường tiểu học toàn cấp không có giáo viên chuyên dạy thể dục thể thao, mà các thầy giáo dạy lớp nhất đều được đào tạo làm huấn luyện viên (moniteur) như thầy Nguyễn Nhất Kiểm và thầy Trần Văn Quy. Đối với học sinh các lớp cuối cấp, thầy huấn luyện viên thường tổ chức tập luyện và thi một số môn như chạy, nhảy cao, nhảy xa, xà đơn, xà kép, ném tạ, đá bóng tròn… Các môn thủ công như vẽ, nặn tượng, đan lát, làm hoa giấy, đèn lồng… cũng được dạy bài bản, nghiêm túc. Phong trào múa hát được nhà trường quan tâm tổ chức thường xuyên. Hồi ấy, cả trường không có lấy một cây đàn, đa số học sinh đều không biết nhạc. Nhưng học sinh chúng tôi rất say mê múa hát kể cả hô bài chòi, hát bộ…, nhất là trong những đêm đốt lửa trại, những cuộc cắm trại. Nghỉ hè năm 1944, một số học sinh của trường được cử đi tham gia trại hè toàn tỉnh (gọi là colonie de vacance). Tất cả học sinh dự trại hè đều ăn ở tại Trường Collège de Võ Tánh. Học sinh dự trại phải thành thạo mã tự (morse) bằng còi và bằng cờ, thắt các loại nơ (đóng trại, leo núi, cứu thương…), biết băng bó, cấp cứu người bị thương… Ban ngày, chúng tôi chơi trò chơi lớn hoàng tử tìm công chúa tại Gành Ráng, dưới chân lầu Bảo Đại. Anh Đặng Hữu (nguyên Trưởng ban Khoa giáo Trung ương) hóa trang đóng vai hoàng tử, tôi đóng vai công chúa. Bên đi tìm công chúa phải giỏi tìm dấu đi đường, giải các bức thư mật bằng mã tự, phải vượt qua nhiều chướng ngại vật, phải kịp thời cấp cứu đồng đội bị thương… Nếu không nhanh nhẹn, thông minh, dũng cảm thì không thể nào giành thắng lợi. Ban đêm, chúng tôi đốt lửa trại, biểu diễn văn nghệ. Học sinh Trường Tiểu học An Lương chúng tôi biểu diễn một đoạn tuồng Lộ Địch. Anh Huỳnh Dĩ đóng vai Lộ Yết, anh Huỳnh Tỷ đóng vai Lộ Địch, tôi đóng vai Chi Manh. Nay nghĩ lại thấy hay hay và ngượng ngùng làm sao ấy!
Hơn sáu thập kỷ đã đi qua mà dấu ấn trường tiểu học làng tôi vẫn như một cuộn phim đầy hình ảnh sống động luôn tái hiện trong tâm khảm, mang lại cho tôi những niềm tự hào trong sáng về một mái trường đã ươm được nhiều mầm non tài năng cho quê hương, đất nước. Biết bao học sinh cũ của trường đã được đào tạo thành những cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước như cố ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Đình Tứ, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao, nhiều giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ, nhiều nhà văn, nhà báo tên tuổi và nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh…
Ngày nay, trên khuôn viên ngôi trường năm xưa là hai dãy phòng học khang trang của Trường Tiểu học An Lương đương đại. Giữa hai dãy phòng học là sân chơi rộng rãi, thoáng mát. Cây bàng cổ thụ không còn nữa, nhưng đã có nhiều cây cao bóng mát đứng thẳng hàng xung quanh sân trường. Ngôi trường trông rất bề thế. Đội ngũ giáo viên đa số được đào tạo cơ bản, chính quy. Số lượng học sinh đông gấp nhiều lần so với thời tôi học. Nhưng tiếc rằng gần 35 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trường này chưa có những học sinh giỏi đoạt giải cấp tỉnh, cấp quốc gia. Tôi còn nhớ năm 1965, khi xã nhà được giải phóng, tôi từ chiến khu về thăm quê, được gặp và tay bắt mặt mừng người bạn học cũ, đồng chí Tín Dân (Võ Phú), Bí thư đảng bộ xã, người đã nhiều phen vào sinh ra tử trước mũi súng của Mỹ - Diệm. Đồng chí ấy tâm sự: "Mình được các thầy giáo Trường Tiểu học An Lương dạy nên người. Mong sao trời đất, ông bà phù hộ đến ngày nước nhà thống nhất, mình còn sống sót, nhất định sẽ cùng đồng chí, đồng bào và bạn học cũ phấn đấu xây dựng Trường Tiểu học An Lương thành một trường dạy và học đạt kết quả cao…". Khi còn sống, là Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Đình Tứ đã nhiều lần về thăm lại và chiêm ngưỡng mái trường xưa, tìm lại vết tích ngôi nhà đã ấp ủ, chở che gia đình anh gần hai thập kỷ. Anh cũng bày tỏ mong ước xây dựng Trường Tiểu học An Lương thành trường kiểu mẫu của tỉnh. Tâm nguyện của những người bạn đã khuất cũng là khát vọng của tất cả giáo viên và học sinh Trường Tiểu học An Lương xưa và nay. Mong sao những năm đến, Trường Tiểu học An Lương ra sức phấn đấu đạt chuẩn quốc gia và có nhiều giáo viên dạy giỏi, nhiều học sinh học giỏi đoạt giải cấp tỉnh và cấp quốc gia.
. Nguyễn Công Hoàng |