Vĩnh Thạnh quê tôi có con sông Côn kéo dài uốn khúc qua thác ghềnh, ngày đêm rì rầm điệp khúc một bài ca muôn thuở; lúc hiền hòa trong mát nên thơ, lúc hung dữ nổi sóng cuồng phong. Những dốc cao núi thẳm, thác ghềnh đá dựng, bờ tre bến nước là những hình ảnh ghi sâu trong ký ức tôi từ thời thơ ấu.
Theo chiều dài lịch sử, người dân quê tôi đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Thế kỷ 18, Vĩnh Thạnh là một phần của Tây Sơn thượng đạo, đã góp sức người, sức của cho khởi nghĩa thành công, làm nên những chiến công hiển hách lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Đến giai đoạn Tây Sơn thoái trào cũng chính nhân dân Vĩnh Thạnh là người giang tay đùm bọc, nuôi nấng, che chở cho một số tướng lĩnh và nghĩa quân Tây Sơn thoát khỏi sự trừng phạt của nhà Nguyễn. Những di tích còn lưu lại như: Vườn cam Nguyễn Huệ, khẩu đại bác của nghĩa quân Tây Sơn được đồng bào Vĩnh Sơn giữ hơn 100 năm (đã đưa về Bảo tàng Quang Trung); rồi truyền thuyết về Chúa Xà Đàng và bầy ngựa rừng… là những minh chứng hùng hồn cho thời kỳ oanh liệt đó.
Thế kỷ 19, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp, dưới cờ khởi nghĩa của Bình Tây đại nguyên soái Mai Xuân Thưởng, Vĩnh Thạnh là nơi rèn đúc vũ khí và là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho nghĩa quân. Dấu tích Gò Thứ, thác Bà Năm Đá còn đó; gương những người phụ nữ làm hậu cần giỏi - bà Đỗ Thị Lài, bà Năm Đá - còn truyền tụng trong dân gian đến ngày nay.
Thời 9 năm kháng chiến (1945-1954), khi giặc Pháp chiếm Tây Nguyên, Vĩnh Thạnh - Bình Khê trở thành tiền đồn phía tây nam tỉnh Bình Định, đã lập ra chiến lũy "Tam Bình" nổi tiếng, là hậu cứ vững chắc của lực lượng kháng chiến An Khê - Gia Lai. Cả ngày đêm từ các căn cứ Cửu An, Tú Thủy đại bác của Pháp bắn xuống Vĩnh Thạnh như mưa. Ngoài ra, chúng còn tổ chức hàng chục cuộc ruồng bố biệt kích đốt nhà, giết người, cướp của, gây nên bao cảnh đau thương tang tóc. Nhưng nhân dân Vĩnh Thạnh vẫn kiên cường dũng cảm, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ, đánh giặc giữ làng và chi viện mọi mặt cho tiền phương
Hai mươi năm đánh Mỹ, Vĩnh Thạnh ở vào vùng chiến lược đặc biệt - vừa là vùng căn cứ vũ trang cách mạng, vừa là vùng giáp ranh cài răng lược giữa ta và địch. Trong thế "ngày địch, đêm ta", nhân dân Vĩnh Thạnh một lúc làm các nhiệm vụ nuôi nấng, bảo vệ lực lượng cách mạng, đấu tranh bảo vệ xóm làng không cho địch chiếm đất bắt người, dồn dân lập ấp. Ngày 6-2-1959, cuộc khởi nghĩa Vĩnh Thạnh đã nổ ra và đây được xem là cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên của phong trào đồng khởi ở Quân khu 5. Năm 1972, Vĩnh Thạnh được giải phóng hoàn toàn. Năm 1975, nước nhà độc lập thống nhất, Vĩnh Thạnh là một trong những địa phương đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lượng vũ trang.
Sau khi hết giặc xâm lược, nhân dân Vĩnh Thạnh bắt tay vào xây dựng quê hương từ hai bàn tay trắng với hành trang là sự lãnh đạo của Đảng và truyền thống nhân dân cần cù lao động, yêu chuộng hòa bình. Sau gần 30 năm phấn đấu xây dựng, quê tôi đã khởi sắc rõ rệt, đạt được những thành tựu mà trước đây có nằm mơ cũng không thấy. Khắp nơi thi đua lao động sản xuất, khai hoang phục hóa, nâng cao dần diện tích, năng suất cây trồng, vật nuôi. Cây lúa nước được đầu tư thâm canh. Các loại cây công nghiệp, cây ăn quả như: mía, mì, đào, thuốc lá, đậu phộng được phát triển, mở rộng. Người dân cũng đã biết nuôi bò lai, nuôi cá nước ngọt thành công bước đầu. Đến năm 2004 này, cả huyện không còn hộ đói, hàng năm giảm khoảng 15% hộ nghèo; hiện nay chỉ còn 1.451 hộ nghèo, chiếm 23,79% so với tổng số hộ. Nhà ở tạm bợ tranh tre, vách đất hầu như đã hiếm thấy, thay vào đó là nhà tường xây, mái ngói. Tất cả 46 thôn, làng với 84% hộ dân đã có điện sinh hoạt; 86% hộ dân sử dụng nước sạch. Làng xóm quê tôi, kể cả vùng xa xôi hẻo lánh trước đây vốn âm u thầm lặng, nay trở nên sáng sủa tươi vui; ngày đêm âm vang tiếng loa truyền thanh, truyền hình. Mạng lưới vô tuyến viễn thông, bưu chính đã phủ kín xuống xã thôn. Thanh niên nam, nữ đã có thể nói chuyện với người yêu đang công tác ở TP. HCM, Hà Nội, hay bất cứ nơi nào trong nước và vào bất kỳ lúc nào.
Vĩnh Thạnh cũng đã có hệ thống cầu, đường giao thông tương đối thông suốt. Người dân qua sông qua suối bằng cầu bê tông cốt sắt kiên cố, đường trải nhựa bê tông hoặc đường cấp phối liên xã, liên thôn. Ô tô lớn, nhỏ có thể đến tận xóm thôn dễ dàng. Đi trên đường rộng thênh thang hôm nay, trong ký ức tôi không sao quên được trước đây không lâu, người dân chỉ đi bộ qua các đường hẻm nhỏ, qua các bến đò ngang, nhanh hay chậm phụ thuộc vào người lái đò. Mùa mưa lũ về thường chia cắt xóm làng thành nhiều ốc đảo, việc đi lại gặp vô cùng khó khăn. Vì vậy đã có câu ca dao rằng:
Qua sông thì phải lụy đò
Tối đèn, tắt lửa lụy cô bán dầu
Nay không biết ai đó đã cải biên câu ca dao thành:
Qua sông nay đã có cầu
Ngày nay điện sáng thay dầu năm xưa!
Điều mà tôi tâm đắc nhất là phát triển sự nghiệp giáo dục. Hệ thống trường tiểu học rải đều ở các thôn làng; các xã đều có trường trung học cơ sở; ở huyện có trường trung học phổ thông, trường Phổ thông Dân tộc nội trú, hàng năm có hàng ngàn học sinh theo học. Nhớ lại thời thơ ấu khi tôi mới cắp sách đến trường, Vĩnh Thạnh chỉ chỉ có 1 trường tiểu học "Pháp-Việt", có 3 lớp, hàng năm chưa đến 100 học sinh theo học. Bởi vậy có đến 95% dân mù chữ. Về y tế, hiện đã có hàng chục trạm y tế thôn bản, có bệnh viện huyện mấy chục giường điều trị nội trú, có đội ngũ y-bác sĩ khám chữa bệnh cho dân. Thời Pháp thuộc, cả vùng quê rộng lớn này chỉ có 1 trạm xá, 1 y tá phụ trách (hồi đó gọi là thầy thông); người dân ốm đau nếu có tiền dùng thuốc Nam, thuốc Bắc, người nghèo chỉ dựa vào thầy cúng.
Ngày trước ở Vĩnh Thạnh sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ là chính, khai thác lâm sản thủ công bằng sức người khuân vác… nhằm mục đích chính là tự cấp tự túc và trao đổi hàng hóa nội bộ theo lối "ông có gà, bà có thóc". Tôi còn nhớ mẹ tôi hát ru tôi trên cánh võng:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuốn gửi lên
Ngày nay nhân dân quê tôi đã biết tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại tiên tiến, đã biết sử dụng máy móc cơ giới hóa nông nghiệp; biết chọn giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ nhằm đưa hàng hóa tham gia lưu thông trên thị trường; đã biết kinh doanh hạch toán lãi - lỗ, để cạnh tranh trên thương trường.
Nhưng tất cả cũng chỉ mới là khúc dạo đầu của ước vọng. Tương lai còn tiềm ẩn nhiều hứa hẹn. Sông Côn dài hơn 171 km, bắt nguồn từ những dãy núi cao, dốc đứng, tạo thành nhiều thác ghềnh và thung lũng thuận lợi để làm thủy lợi, thủy điện. Bởi thế, từ năm 1987, Trung ương và tỉnh đã đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn, công suất 66.000 kwh, hòa lưới điện quốc gia. Và từ năm 2003, dự án hồ Định Bình, công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh đã triển khai thực hiện. Người dân Vĩnh Thạnh quê tôi đang dõi theo từng ngày, cùng với những ước mơ cháy bỏng. Rồi đây dòng nước ngọt lành từ đây sẽ chảy xuôi, tưới mát cho những cánh đồng của Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước…, cho ra lúa gạo, cây trái, no ấm cuộc đời. Diện tích đất lâm nghiệp của Vĩnh Thạnh đứng đầu toàn tỉnh với hơn 66,8 ngàn ha, trong đó có nhiều loài gỗ quí: lim, trắc, cẩm lai, hương, cà te, sao, chò…. Cẩm lai rừng Vĩnh Thạnh đã từng góp mặt để xây Lăng Bác Hồ. Dưới lòng đất người ta cũng đã phát hiện nhiều khoáng sản quí như: vàng, bốc xít, mi ca, cao lanh… Vĩnh Thạnh cũng có thể được xem là một vùng du lịch văn hóa, sinh thái hấp dẫn. Những khu rừng già ở Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hiệp với khí hậu trong lành, nhiều thắng cảnh, cùng với các di tích văn hóa, lịch sử (thành đá Tà Cơn, vườn cam Nguyễn Huệ…), nhiều công trình hiện đại (Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn, hồ Định Bình…) hứa hẹn sẽ là những địa chỉ hấp dẫn khách du lịch trong tương lai. Hãy đánh thức nó lên cho quê hương thêm giàu đẹp, cho núi rừng hòa vang khúc hát tự hào.
Nhớ lại thời thời chiến tranh, trong ký ức tôi không bao giờ phai mờ hình ảnh của những người đồng đội, đồng chí, những người con ở nhiều vùng quê khác đến cùng kề vai sát cánh chiến đấu để bảo vệ quê tôi. Nhiều người đã ngã xuống, máu xương đã để lại nơi đây. Đáp lại, những bà mẹ, người chị ở trong các buôn, làng đã mang những quả trứng, lon gạo chăm sóc thương binh, nuôi dưỡng bộ đội, thể hiện nghĩa tình quân dân cá nước. Mong sao có được một đài tưởng niệm ngang tầm để đời tri ân những con người đã làm nên lịch sử.
. Nguyễn Công Khoa |