"Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên"
(Ca dao)
Không biết câu ca dao đó có tự bao giờ, nhưng nó gắn kết duyên phận và cuộc đời anh Nguyễn Hùng Sơn và chị Lê Thu Hải. Anh Sơn là con trai đất núi Bình Sơn - Ân Nghĩa (Hoài Ân), bao đời "chân lấm tay bùn". Chị Hải là con gái miền đồng cát Kim Giao (Hoài Nhơn), gió biển nặng hương muối mặn nồng, quanh năm làm nghề bán buôn hàng mẹt.
Mùa gió nồm, biển Hoài Nhơn xanh ngắt, cá chuồn, cá cơm đầy thuyền, đầy chợ. Chị có công mua gom lại rồi theo mẹ cho ghe ngược dòng Kim Sơn về với "nậu nguồn", bán bầu mắm cái, mắm cơm, bán đôi mẹt cá, đổi thơm, đổi mít, đổi bắp, đổi gạo...
Cứ thế tuổi thanh xuân của chị lớn lên cùng vùng biển Kim Giao, cùng sông nước Kim Sơn hiền hòa và nhân dân "nậu nguồn" thắm đượm nghĩa ân, thành thân thành quen và đong đầy nỗi nhớ.
Anh trai cày Nguyễn Hùng Sơn, năm bảy ngày không thấy cô bán mắm đã ngóng trông và hay nhắc khéo mẹ mùi vị thơm thơm của chén mắm cá cơm, và hay tặc lưỡi về các vị ngọt lịm của nồi cá chuồn kho thơm cuốn cùng bánh tráng mì sau mỗi buổi làm đồng... Sự "chông chênh" trong anh lớn dần, thôi thúc và anh quyết định tìm gặp chị nói câu "thề non hẹn bể".
Năm 1965, chiến tranh ác liệt, gia đình anh ly tán; anh thoát ly tham gia cách mạng... Mỗi lần ngồi ăn cơm cùng đồng đội với cơm vắt và chén mắm kho, anh chạnh lòng miên man nhớ về chị, về cái lúc thẹn thùng e ấp. Anh rất tin, rằng chị sẽ chờ anh.
Năm 1972, quê hương Hoài Ân giải phóng, dòng Kim Sơn không còn ngăn lối. Chiếc ghe bầu thân quen vẫn ngược xuôi đem mắm cá về nguồn, đổi bắp, đổi gạo. Và chị ngóng tin anh. Hai năm rồi ba năm, không biết tin anh nhưng lòng chị vẫn cảm thấy câu hẹn thề ngày nào còn nguyên hơi ấm, trong thâm tâm chị quyết chờ, quyết đợi.
Năm 1975, trong một chiều mưa nguồn, nước Kim Sơn cuộn thác, chiếc ghe bầu nhà chị phải dạt lên bãi Bằng Lăng chong đèn đợi nước.
- Có phải ghe đó không, cho tôi về với - bên kia bờ có tiếng vọng sang.
Bao tháng năm trên dòng Kim Sơn, chị đã nghe nhiều tiếng nhờ đò như thế. Song tiếng kêu hôm nay nghe sao lạ, lòng chị xuyến sao khó tả. Chị cho ghe xuôi dòng. Trước mắt chị là anh bộ đội, vai mang ba lô, đầu đội mũ cối. Chị ngập ngừng: "Có phải anh... không" - Trong lòng chị dâng trào sung sướng nhưng không dám kêu đúng một cái tên.
Đúng rồi anh Sơn... Niềm hạnh phúc trào dâng trong cả anh và chị.
Anh và chị về lại ngôi nhà xưa. Anh đã biết ba mẹ anh đã mất trong đợt càn mùa khô 1966 của giặc. Trước bàn thờ, anh chị xin phép ba mẹ đồng ý cho hai người được sống bên nhau.
Một tháng sau, được họ hàng hai bên đồng ý, anh chị tổ chức đám cưới, tuy không rình rang, không đưa đón nhưng xiết bao hạnh phúc.
Cuộc sống mới bắt đầu với anh chị. Tuy sức khỏe của anh giảm sút do di chứng của chiến tranh ác liệt, tưởng chừng như anh sẽ không vượt qua nổi, nhưng tình yêu của chị, sự chịu thương chịu khó, sự ân cần của một người con gái đã chung thủy, đợi chờ đã giúp anh chống chọi lại bệnh tật, góp sức cùng chị chắt chiu xây dựng một gia đình ấm êm hạnh phúc.
Thật cảm động khi nghe câu chuyện anh Sơn chị Hải. Tôi chợt nhớ có một nhà văn đã viết: Tình yêu không tự đến, nó có trong mọi chúng ta. nếu ta biết tin tưởng, tôn trọng, gìn giữ thì tình yêu sẽ lớn dần hòa quyện với mọi người. Nó chắp cánh cho mọi ước mơ trở thành hiện thực, và hạnh phúc sẽ đến với mọi người từ tình yêu.
. Hà Chí Tân
(Hoài Ân)