Ở mọi vùng quê Việt Nam, con cá đồng nơi nào cũng có. Nơi nào có đồng ruộng là ở đó có cá đồng (chép, lóc, rô, diếc, chạch...). Quê tôi cũng thế, con cá đồng sống sung túc ở mương hồ, quẫy nước trong ruộng lúa bốn mùa... Nhưng ấn tượng nhất cho đến bây giờ đối với tôi là mùa cá đồng tháng tám. Ấy là khi cây lúa vào vụ thu hoạch cũng là lúc bầu trời đã bắt đầu chuyển những cơn mưa đầu mùa, người ta thường gọi là mưa giông.
Lớn lên ở một vùng quê bên dòng sông Côn hiền hòa. Con sông tắm mát tuổi thơ tôi, cũng là nguồn cá cho những cánh đồng ăn nước của dòng sông. Hằng năm, cứ vào độ tháng tư, tháng năm gặp tiết Tiểu mãn, sau vài ngày mưa những đàn cá chép mẹ từ sông theo con nước vào đồng ruộng sinh sản. Sau khi làm nhiệm vụ duy trì nòi giống xong, một số cá chép mẹ bị vây bắt, số còn lại thoát được ra bàu, ra sông. Nhưng điều quan trọng là chúng đã để lại trong ruộng những đàn con hứa hẹn cho một mùa thu hoạch cá đồng lớn hơn cho những người nông dân quê tôi khi tháng tám mùa gặt.
Với một chú mục đồng nhỏ như tôi, tuy chưa phải là tay "sát cá" có tiếng, nhưng mỗi khi bước đi trên bờ của những ruộng lúa chín vàng nghe tiếng cá rô đớp móng, các chép cựa quẫy, lòng không khỏi nôn nao mong sao cho thửa ruộng này sớm gặt để tha hồ bắt những chú cá chép mụt được vỗ béo, ẩn nấp trong ruộng. Vì sao tôi phải nôn nao chờ đợi? Chả là đồng ruộng quê tôi hồi ấy còn mang vẻ hoang dã, đám cao, đám thấp chứ chưa được cải tạo bằng phẳng như bây giờ. Thường những thửa ruộng thấp sâu khó canh tác, nhưng được cái mực nước luôn giữ ba bốn tấc, nơi lý tưởng cho cá cua sinh sống mà không sợ con người quấy rầy, trừ khi lúa thu hoạch xong.
Khi mùa lúa chín, không cần đi dạo khắp cánh đồng, người dân quê tôi cũng biết đám ruộng nào là nhiều cá và chỉ còn chờ cho thửa ruộng đó thu hoạch là "xuất quân" đúng lúc. Lúa vừa dọn xong đưa lên bờ, là lúc những tay nơm ào xuống ruộng. Không nơi ẩn nấp, những chú chép mụt lần lượt chui vào đụt (giỏ đựng cá). Có người gặp may, chẳng mấy chốc trĩu đụt lên bờ ngồi nghỉ hút thuốc. Con nít như tôi chưa có kinh nghiệm nhiều về bắt cá bằng nơm, được các bậc "tiền bối" hướng dẫn cũng "thu hoạch" được lưng đụt sau vài giờ đồng hồ lặn lội khắp ruộng.
Thế rồi mùa gặt tháng tám cũng đi qua, cánh đồng trơ gốc rạ, lũ cá khó sống được, con nào còn sót lại sau "đại nạn" rủ nhau trở lại ao hồ, kênh rạch chờ những trận mưa giông đầu mùa. Trên cánh đồng quê tôi có một con mương vừa rộng vừa sâu, mương thông với một bàu nước lớn, bàu này lại thông với sông Côn. Từ xưa đến nay bàu nước này chưa bao giờ cạn, có nơi sâu đến hàng chục mét nước. Đây là "chiến khu bất khả xâm phạm" của các loài cá, cua, ốc... Người ta đồn rằng, dưới bàu có những con cá bà cá ông sống lâu trăm tuổi. Trong trí óc tuổi thơ tôi mường tượng ở đó có những gia đình cá ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt... Để bắt được những con cá chép mẹ ở bàu này phải chờ đợi, vì cá chép mẹ mỗi con dài hàng nửa thước tây, nặng ba bốn ký không dễ gì rời bàu đi chu du nếu không có những trận mưa lớn đầu mùa, nước mương đầy ắp tràn lên đồng.
Đó là những buổi chiều sau những cơn mưa, người có kinh nghiệm chỉ nhìn phía trời tây màu ráng vàng u uẩn đón biết được hôm nay cá sẽ xuống đồng nhiều. Những đàn ông, trai tráng trong xóm hú nhau chuẩn bị nơm rồi kéo nhau lên đầu nguồn con mương ngồi mai phục. Họ đi cả đoàn, có khi đến vài chục tay nơm. Kiểu bắt cá này khá độc đáo, tôi nghĩ chắc chỉ có ở quê tôi.
Trong chiều chạng vạng, chỉ còn vài chút ánh sáng mờ mờ trên mặt nước, những "lão ngư" ngồi vừa hút thuốc, vừa chăm mắt nhìn con nước lao xao để phát hiện đàn cá đi xuống. Chỉ người có kinh nghiệm thì mới biết được điều này, có thể họ đếm được đàn cá này chừng bao nhiêu con. Khi thấy đã đủ họ cùng nhau xuống mương theo hàng dọc. Nước ngập tới cổ, mỗi người hai tay hai chiếc nơm cứ úp ngầm như vậy đi xuôi theo dòng nước. Khi bị đánh động bất ngờ, những chú cá chép mẹ dù tinh ranh muốn quay lại bàu cũng khó, vì hễ người đi trước đụng cá thì phải báo cho người đi sau biết để che chắn bắt cho kỳ được. Khi người cuối cùng kêu lên đụng cá thì lập tức cả đoàn phải lên bờ quay úp lại để bắt cho kỳ được. Có lúc chỉ một con cá thôi mà cả vài chục tay nơm quần đảo hàng giờ, cuối cùng chỉ có một người được nhưng đó là niềm vui của cả đoàn. Sướng nhất là khi cá vào nơm, nếu cá nhỏ thì còn quẫy chạy, còn gặp cá lớn thì người úp chỉ còn biết ghì nơm và kêu người khác hỗ trợ để đưa cá lên bờ, đó là những con cá dài chừng nửa thước. Gặp hôm trời thuận cá xuống nhiều những người úp cá vây bắt, lặn hụp dưới nước đến nửa đêm. Thơ mộng nhất là những đêm trăng, mặt mương sóng sánh ánh trăng, đó đây rộn tiếng cười nói...
Với những vùng quê xa chợ búa như quê tôi khi mùa cá đồng đến là niềm vui biết bao nhà. Những ngày tháng tư, tháng tám..., nhà nào cũng có cá đồng để ăn, có nhà đông đàn ông trai tráng bắt được nhiều cá ăn không hết, phần đem cho những gia đình neo đơn, phần đem ra chợ bán. Con cá trao qua, miếng cà trao lại thắm tình làng nghĩa xóm, chuyện chim trời cá nước kể gì. Và tôi cũng không hiểu sao, hình như con cá mình bắt từ ruộng đồng mương rạch lại ăn ngon hơn con cá mua ở chợ.
Vui nhất là những ngày sau giải phóng năm 1975, những người dân bắt cá đồng ở quê tôi tự do tha hồ vây bắt những đàn cá chép cả đêm mà không sợ gì. Nhưng những ngày vui ấy diễn ra không lâu, chỉ mấy năm sau dần đi vào hợp tác xã, để cây lúa đạt năng suất cao đồng ruộng được cải tạo san bằng, hệ thống thủy lợi nội đồng hình thành, con cá đồng không còn nơi trú ngụ. Những mùa cá đồng quê tôi ngày càng tẻ nhạt, chuyện thế cũng đành, nhưng có điều làm tôi băn khoăn suy nghĩ mãi là con cá đồng không chỉ chết vì thiếu môi trường nước, mà còn chết vì ruộng đồng đã gánh một lượng khá nhiều thuốc trừ sâu, thuốc cỏ, rồi ao hồ bị đánh thuốc nổ, xung điện... Không chỉ có con cá, mà hầu như mọi sinh vật trong đồng ruộng đều chịu chung số phận. Phải chăng qui luật của cuộc sống là như thế? Và những mùa cá đồng ở quê tôi còn hy vọng gì để trở lại...
. Thanh Trúc
|