Mùa xuân năm 1955, tôi cùng đông đảo cán bộ, giáo viên tỉnh Bình Định lên tàu Ba Lan tập kết ra miền Bắc. Sau bảy ngày lênh đênh trên biển vì sóng to gió lớn, tàu cập bến Quý Cao. Vừa bước lên bờ, chúng tôi được đồng bào miền Bắc đón tiếp thân tình như những người ruột thịt. Các bà mẹ, các thiếu nữ, các em bé đứng chật hai bên đường ân cần mời chúng tôi uống nước chè xanh. Bị say sóng mệt nhoài, chân bước dập dềnh như đi trên sóng biển, uống cạn bát nước chè xanh pha đường, tôi thấy tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Những ngày tạm trú tại thị xã Bắc Ninh chờ Bộ Giáo dục bố trí công tác, nhà giáo chúng tôi nhớ gia đình, nhớ làng quê da diết.
Làng An Lương, nơi "chôn nhau cắt rốn" và trải qua thời thơ ấu tái hiện rõ nét trong tâm khảm tôi. Ngôi nhà tranh tôi cất tiếng khóc chào đời, sau nhà có mấy cây ổi tôi và bè bạn thường leo lên hái trái giờ đây như thế nào? Chắc hẳn chiều chiều mẹ tôi ngồi trước cửa hướng về phương bắc cầu mong cha con tôi mọi sự an lành. Trường Tiểu học An Lương, nơi tôi theo học từ lớp Năm đến lớp Nhất tốt nghiệp tiểu học thi vào học tại trường Collège de Quy Nhơn, có cây bàng cổ thụ ở góc sân, ngày ngày chúng tôi tụ tập dưới gốc cây đánh bi, đánh đáo, đá kiện, nhảy dây… như đang hiện ra trước mặt tôi. Phố Họa có đủ cửa hàng, cửa hiệu, quán ăn đông vui, nhộn nhịp như một thị tứ; chợ An Lương 5 ngày nhóm một phiên, năm nào tôi cũng đi dạo chợ Tết 23, 28 tháng chạp âm lịch, bán đầy đủ các thứ hàng hóa, kể cả đồ đồng, đồ cẩn xà cừ, đồ mộc cao cấp, hàng mây tre… những hình ảnh ấy sao mà thân thương, gần gũi quá! Nỗi nhớ nhà cứ triền miên như những trận mưa rào lặng đi một lúc lại ào tới ngay. Tôi chợt nhớ lời bình giảng của thầy Hà Huy Liêm dạy văn lớp Đệ tứ trường Trung học Nguyễn Huệ, rằng lòng yêu quê hương là rất cụ thể, đó là lòng yêu những người nâng đỡ, dìu dắt từng bước mình đi, yêu cái cây mình trồng trước ngõ, yêu cái phố đổ ra bờ sông… Ôi, làng An Lương quê tôi sao mà đáng yêu và đẹp thế, đẹp như một bức tranh thủy mặc!
Những năm dạy học tại trường cấp II Gia Lương sau đó chuyển về trường học sinh miền Nam số XVI, tuy bận rộn với nhiệm vụ chuyên môn, nhưng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương lại càng sâu lắng như những mạch nước ngầm vô tận. Đinh ninh rằng sau hai năm sẽ có hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, tháng nào tôi cũng viết bưu thiếp gởi về Nam. Nhưng bẽ bàng thay, thư đi thì nhiều mà thư lại không có! Năm 1958, khi các trường học sinh miền Nam và các cơ quan, đơn vị miền Bắc tổ chức mít tinh kịch liệt lên án vụ thảm sát Phú Lợi (trại giam Phú Lợi có 6.000 tù chính trị, địch bỏ thuốc độc giết chết 1.000 người, 4.000 người khác bị ngộ độc nặng), cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc mới không còn ảo tưởng hòa bình, thống nhất đất nước. Nỗi đau miền Nam bị quân thù dày xéo, nỗi lo mẹ già, đồng chí, đồng bào quê nhà bị Mỹ - ngụy trả thù, tra tấn, sát hại, luôn day dứt lòng tôi…
Cuối năm 1961, đang là cán bộ giảng dạy làm phó trưởng đoàn phụ trách sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội đi thực tập tại trường cấp III Chu Văn An, tôi được thầy hiệu trưởng Phạm Huy Thông gọi về gặp cán bộ Ban Thống nhất bàn việc trở về Nam hoạt động. Tôi phấn khởi nhận nhiệm vụ ngay. Sau gần một tháng tập trung bồi dưỡng sức khỏe, học tập chính trị, tập đi bộ mang vác, đoàn cán bộ trung cao cấp gồm 40 người lên ô-tô vào làng Ho, nơi tập kết cán bộ, chiến sĩ vào Nam. Tôi bị say xe nôn mửa, không ăn uống hai ngày đêm. Các anh quê Bình Định khuyên tôi nên xin trở ra Hà Nội vì sợ tôi không đủ sức vượt Trường Sơn dài ngày. Nỗi nhớ thương mẹ già, nỗi trăn trở đồng chí, đồng bào thân thương ai còn, ai mất và khát vọng được góp phần vào sự nghiệp giải phóng quê nhà như tăng thêm sức mạnh tinh thần và quyết tâm để tôi lên đường về chia lửa với nhân dân. Trên đường dài thăm thẳm, phải vượt qua những đoạn đường dốc đất đỏ trơn như mỡ, những con suối nước lũ, mưa ngàn chảy xiết, những vách đá tai mèo dựng đứng cheo leo; đêm đêm phải tự lo kiếm củi, hái rau nấu cơm canh, mắc võng ngủ giữa rừng già không lán trại… đã có không ít cán bộ vì không chịu nổi gian khổ và sốt rét rừng nên nửa đường phải quay ra miền Bắc. Nhưng lòng yêu quê hương tha thiết và quyết tâm về lại quê nhà cùng đồng bào, đồng chí sát cánh kề vai chống Mỹ cứu nước đã giúp tôi, một thư sinh chưa một ngày lao động vất vả, vượt qua mọi thử thách.
Sau hai tháng leo đèo, trèo dốc, vượt suối, băng ngàn, chúng tôi về đến căn cứ khu V. Tôi được phân công về công tác tại Ban Tuyên huấn Khu ủy, chờ mong cơ hội được đi công tác về quê một chuyến. Một sự chờ mong dằng dặc "ba thu dọn lại một ngày"… Đầu năm 1965, trong cao trào giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, tôi được phân công đi công tác tại tỉnh nhà. Về thăm lại làng quê sau 10 năm xa cách, được ôm hôn mái tóc bạc phơ của mẹ già mắt rưng rưng ngấn lệ mừng vui và xúc động, được tay bắt, mặt mừng, ôm hôn thắm thiết những đồng chí được phân công ở lại hoạt động đã biết bao lần vượt qua cõi chết, được đi đến từng nhà thăm hỏi bà con chòm xóm… thật không có hạnh phúc nào sánh bằng! Tôi không thể nào cầm được nước mắt khi nghe kể về những đêm "sám hối" kinh hoàng, những đòn tra tấn thời trung cổ mà đồng bào, đồng chí phải chịu đựng trong cái địa ngục trần gian "tố cộng, diệt cộng". Tôi vô cùng cảm phục và tự hào về những tấm gương đấu tranh kiên cường, bất khuất, hy sinh dũng cảm của các đảng viên cộng sản và những người dân yêu nước. Mười năm bị quân thù dày xéo, làng tôi có nhiều biến cố, tổn thất, nhưng lòng dân vẫn "vững như kiềng ba chân", vẫn một lòng một dạ thủy chung với cách mạng, tuyệt đối tin tưởng Đảng và Bác Hồ vô vàn kính yêu. Mười năm xa cách, mấy ngày tái ngộ, cuộc vui quá ngắn ngủi! Tạm biệt mẹ già, tạm biệt làng quê, tạm biệt vùng giải phóng Bình Định thân yêu, trái tim tôi khắc đậm hình ảnh quê hương với lòng yêu thương không bờ bến…
Sau khi Mỹ ào ạt đổ quân vào miền Nam, cuối năm 1965, tôi được tin vùng giải phóng tỉnh nhà bị địch lấn chiếm đại bộ phận, xã Mỹ Chánh quê tôi bị địch kìm kẹp, đàn áp đẫm máu. Tôi thấy trái tim mình xốn xang. Mẹ tôi, đồng bào, đồng chí thân thương có mệnh hệ gì không? Lực lượng cách mạng có tồn tại, trụ bám được hay không? Những nỗi lo âu, trăn trở ấy luôn day dứt lòng tôi… Cuối năm 1971, trong chuyến đi công tác tại tỉnh Bình Định, tôi được lãnh đạo tỉnh bố trí về công tác tại xã nhà. Dẫu biết rằng thâm nhập vào vùng địch kiểm soát là phải đối mặt với sự mất còn, phải chấp nhận hiểm nguy, nhưng tôi không ngại vì nghĩ rằng được gặp gỡ, thăm hỏi đồng bào đang bị địch kìm kẹp nghẹt thở, chia sẻ cùng bà con những nỗi khổ đau, mất mát, không có gì diễm phúc cho bằng! Tôi được cháu Nguyễn Minh Tâm, xã đội trưởng và hai du kích dẫn đường vượt hơn hai cây số bờ đìa, bờ ruộng, chui rào dây kẽm gai đột nhập vào khu chợ An Lương giữa đêm khuya tĩnh mịch. Hai đầu khu chợ, tại trường Tiểu học An Lương và gốc cây gạo Hiệp An cách khu chợ chừng vài trăm mét, quân địch đang chốt giữ, thỉnh thoảng bắn vài phát súng cầm canh. Thấy tôi từ chiến khu về thăm hỏi, đồng bào ai nấy đều xúc động tay bắt mặt mừng và bày tỏ nỗi lo sợ bị quân ngụy tập kích bất ngờ. Chúng tôi vẫn thản nhiên đi hết nhà này đến nhà khác trò chuyện và động viên bà con vững tâm. Đồng bào kể cho tôi nghe chuyện mẹ tôi bị ốm nặng, không người chăm sóc kịp thời đã qua đời sau ngày Bác Hồ đi xa. Ruột gan tôi đau thắt, nghẹn ngào. Mồ chôn mẹ tôi cách chợ không xa, nhưng quân thù tứ phía, tôi không thể đến viếng mộ để tạ tội bất hiếu! Được nghe kể lại sự hy sinh dũng cảm của hai người bạn, người đồng chí rất thân mà tôi được gặp lại trong niềm vui giải phóng năm 1965 là Bí thư đảng bộ xã Tín Dân (Võ Phú) và Chủ tịch Mặt trận giải phóng Nguyễn Mai; thấu hiểu nỗi khổ đau của người dân không còn được tự do, dân chủ như thời kháng chiến chống Pháp, tôi tự thấy mình còn mang nợ quê hương nhiều quá… Khát vọng được về thăm lại xã nhà rợp bóng cờ đỏ sao vàng luôn cháy bỏng trái tim tôi… Và, đại thắng mùa xuân 1975, khát vọng đó đã thành hiện thực!
Gần 30 năm sau ngày giải phóng, làng An Lương quê tôi thay da đổi thịt nhiều mặt. Trường Tiểu học An Lương được xây lại, đứng hiên ngang trên khu đất trường cũ, nhưng cây bàng năm xưa không còn nữa. Trường Phổ thông trung học An Lương cao tầng mang đến cho tôi niềm tự hào về quê nhà. Chợ An Lương được di dời đến một địa điểm mới rộng rãi hơn, quang đãng hơn, lều quán, phố xá khang trang, hàng hóa phong phú, đa dạng, người mua kẻ bán nhộn nhịp. Trạm y tế, bưu điện xã sạch đẹp. Đài truyền thanh cơ sở luôn cập nhật thông tin hàng ngày. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp được chuyển dịch theo hướng đa canh sản xuất hàng hóa, lấy lương thực làm nền tảng gắn với tiểu thủ công nghiệp chế biến. Dịch vụ ngày càng mở mang. Đêm đêm đèn điện sáng trưng; nhiều nhà có tivi, xe gắn máy. Diện mạo làng tôi đang đổi mới từng ngày theo hình mẫu một thị trấn dịch vụ phồn vinh. Đến viếng nghĩa trang liệt sĩ, tôi nhớ lại lời tâm sự của đồng chí Tín Dân nói với tôi trong niềm vui tái ngộ năm 1965, rằng "Hoàng ơi, nếu đất trời, ông bà phù hộ mình còn sống đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, mình sẽ tích cực góp phần cùng đồng bào, đồng chí xây dựng làng An Lương thành một thị trấn giàu đẹp, văn minh…". Hoài bão cao đẹp ấy của Bí thư đảng bộ xã - liệt sĩ Tín Dân phải chăng cũng là ước vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Mỹ Chánh hôm nay và các thế hệ con cháu mai sau? Là những người con quê nhà, chúng tôi mong sao những năm đến, Đảng bộ và nhân dân Mỹ Chánh cố gắng phấn đấu xây dựng An Lương thành một làng văn hóa kiểu mẫu, xứng đáng với truyền thống cách mạng và truyền thống văn hóa của cha ông.
. Hoàng Nguyễn An Lương
|