Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
khi ta đi đất đá hóa tâm hồn…
(Chế Lan Viên)
Tôi sinh ra và lớn lên ở Ninh Bình, một tỉnh trù phú của đồng bằng Bắc Bộ. Tuổi thơ tôi thường nghe mẹ ru:
… Công đâu công uổng công thừa
Công đâu múc nước tưới dừa Tam Quan
… Chiều chiều én lượn Truông Mây
Cảm thương chàng Lía bị vây dưới thành
… Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền…
Những câu ca dao trong lời ru ấy đã hình thành dần trong tôi hình ảnh một miền quê tuy xa xôi nhưng thật đẹp, thật hấp dẫn. Đó là một miền quê rợp mát bóng dừa xanh, có những người con gái, con trai xinh đẹp, thủy chung mà hiên ngang, bất khuất. Tôi vô cùng khâm phục, mến yêu và thầm ước mong sao có ngày được đặt chân lên vùng đất ấy. Vậy mà kỳ diệu thay, năm 1970 cùng với bao chiến sĩ Sư đoàn 3 Sao Vàng vượt Trường Sơn vào Nam, tôi may mắn được dừng chân ở nơi đây, chiến đấu và trở thành đứa con của Bình Định.
Ba mươi tư năm đã trôi qua, tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác lần đầu đặt chân lên đất Bình Định. Trong tiếng bom địch vọng về, tiếng máy bay trinh sát L19 vo vo khẳng định sự hiện hữu của chiến tranh, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một vài nữ chiến sĩ Bình Định đi ngược hướng đơn vị hành quân. Các chàng trai Sư 3 không thể không ngoái lại ngắm nhìn, bàn tán sôi nổi. Các cô là bộ đội địa phương trên đường đi công tác. Bộ quần áo bà ba đen ôm gọn thân hình trẻ trung. Chiếc mũ tai bèo màu xanh lá cây thấp thoáng khuôn mặt nhỏ nhắn dễ thương. Đôi dép lốp cao su giản dị không làm mất đi nét duyên dáng, uyển chuyển. Các cô gọi chúng tôi là "anh", xưng "em" khiến chúng tôi bối rối (con gái quê tôi chỉ xưng "em" với chồng, với người yêu, với anh trai thôi còn xưng tôi với mọi người, nên được một người con gái xưng em với mình nghe rất thích).
Cùng hiệp đồng chiến đấu với đơn vị tôi, có một nữ giao liên tên là Thủy. Sau một chiến dịch, đơn vị được nghỉ vài ngày, Thủy giúp chúng tôi vá víu, giặt giũ lại quần áo bị rách nhiều chỗ. Đường kim mũi chỉ của Thủy thật khéo léo. Một hôm Thủy đem đến tặng tôi một chiếc ba lô và bộ võng dù may bằng vải ni lông thật đẹp. Loại vải này vừa nhẹ vừa bền, dễ giặt, dễ khô thật tiện lợi. Để có được món quà này, Thủy đã phải bán đi chiếc nhẫn một chỉ vàng, món quà mẹ cô cho khi xa nhà đi chiến đấu. Tôi cầm món quà tặng mà vô cùng xúc động. Xa gia đình, đời lính tráng nay đây mai đó, thiếu thốn, gian khổ đủ điều, tôi đâu được ai chăm sóc, quan tâm như Thủy. Thủy đòi tôi dạy những bài hát về Hà Nội, về Bác Hồ; em dạy tôi ca bài chòi khu 5 và ca vọng cổ. Tôi học rất nhanh, ca vọng cổ cũng khá khiến Thủy cứ tròn mắt khâm phục.
Thế rồi Thủy hy sinh trong một đợt đi công tác. Lúc đó đang ăn cơm chiều, tôi bỏ dở bát cơm chạy ra sau nhà ôm mặt khóc. Từ khi xa gia đình đi chiến đấu gặp biết bao nguy hiểm, gian nan có lúc cận kề với cái chết, tôi không bao giờ khóc. Vậy mà tôi đã khóc. Và tôi hiểu rằng những người con của mảnh đất này, từ nay, đối với tôi đã trở nên gắn bó, thân thiết chẳng khác ruột rà, máu thịt của tôi vậy.
Một lần khi đi công tác ở Hoài Hương, tôi không may bị pháo dập ngất đi và lập tức địch càn đến. Trong lúc mơ mơ màng màng và bụng thắt lại vì bị đói, tôi cảm nhận một chất nước ngọt và béo ngậy trong miệng và nuốt theo phản xạ tự nhiên. Khi tỉnh dậy tôi thấy bên cạnh mình là một người con gái, mùi bồ kết trên tóc cô tỏa ra ngai ngái. Thì ra Hương, cô du kích bám trụ đã cõng tôi về đây, ba ngày qua đã cạy cơm dừa rồi nhai bón để cứu sống tôi. Năm 1977, tôi có về lại Hoài Hương tìm lại Hương, cảnh vật lúc này đã thay đổi nhiều quá. Tôi hỏi thăm nhưng mọi người bảo: Ở đây có ba, bốn cô gái tên Hương: cô đã hy sinh trong chiến tranh, cô đã theo gia đình về Sài Gòn, cô đi kinh tế mới… Tôi buồn vô cùng!
Đầu năm 1972, tôi được phân công về Phòng Hậu cần Tỉnh đội Bình Định, chiến đấu cùng anh chị em quê Hoài Ân, Hoài Nhơn, Tuy Phước. Đó là những đồng đội thật dễ mến, sống chân thật và có tình nghĩa, những con người tháo vát, thông minh, gan dạ và dũng cảm. Quên làm sao những cơn sốt rét kinh người, nhường cho nhau tấm chăn đắp. Quên làm sao những lúc khó khăn, tiêu chuẩn ăn mỗi người ngày chỉ có hai lạng gạo, đói đến bủn rủn chân tay, mờ cả mắt, chị nuôi đã dành cho tôi từng miếng cháy khô. Quên làm sao những ngày lo lắng bồn chồn vì đồng đội đi khẩu giữa đường bị địch tập kích; những đêm đứng mãi ở đầu dốc đến tận khuya mắt đăm đăm ngóng chờ đồng đội trở về. Tuổi thanh xuân tràn trề nhựa sống lại gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội tôi đã nảy nở tình cảm yêu thương một người con gái Bình Định. Vì điều kiện phải đi công tác liên miên, có khi phải xa nhau hàng tháng, rồi bao hiểm nguy rình rập, chúng tôi vẫn hướng về nhau.
Thế rồi niềm hy vọng chờ mong cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực: Năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng, giây phút ấy mới thiêng liêng xúc động làm sao! Chúng tôi hò reo, ôm lấy nhau vừa cười vừa khóc.
Năm 1977 tôi được đơn vị cho về Bắc thăm gia đình, trước khi đi người tôi yêu có vẻ bồn chồn buồn bã. Tôi hiểu nỗi lòng em: có biết bao mối tình không đem lại kết quả bởi xa mặt cách lòng, bởi cuộc sống lòng người dễ đổi thay. Tôi chỉ biết động viên: Em hãy vững tin, hãy bền lòng chờ đợi!
Gia đình tôi vui mừng khôn xiết khi thấy tôi trở về. Ai cũng khuyên tôi đi học tiếp đại học rồi cưới vợ. Những "ứng cử viên sáng giá" cho chức danh cô dâu út tương lai đã được lựa chọn: nào là cô giáo dạy học ở ngay xã, nào là cô cán bộ phòng hóa nghiệm ở nhà máy đóng tàu Bạch Đằng (Hải Phòng), nơi anh tôi làm phó giám đốc. Tôi bối rối vô cùng, hết ậm ừ cho qua lại đánh trống lảng. Nhưng kế hoạch các cụ triển khai thật ăn khớp nhịp nhàng khiến tôi khó lòng né tránh. Tôi đành trốn gia đình vào Nam trước thời hạn trả phép. Ngồi trên tàu đêm ấy, lòng tôi rối bời bao nỗi niềm giằng xé… Xin bố mẹ hãy tha thứ cho con! Trong kia một người con gái hiền dịu, thủy chung đang chờ đợi. Con không nỡ phụ lòng những con người của mảnh đất ấy!
Vậy là từ đó tôi có hai quê. Một nơi tôi đã sinh ra và chôn ra cắt rốn, một nơi tôi đã tìm thấy một nửa cuộc đời và niềm hạnh phúc.
. Đinh Dũng Toản |