Bình Định quê tôi nổi tiếng là vùng đất của nghệ thuật hát tuồng (hát bội). Mỗi người từ khi còn nằm trong bụng mẹ đến khi cất tiếng khóc chào đời, gần như trong tâm tưởng luôn vang vọng tiếng trống tuồng. Bởi thế, nên dù mấy chục năm trời, dù đi xa đó đây lòng tôi cũng không nguôi quên được tiếng trống tuồng mà tôi đã nghe được từ thuở tóc còn để trái đào.
Ngày ấy, quê tôi (huyện An Nhơn) còn nằm trong vòng kìm kẹp của Mỹ-ngụy, nhưng thỉnh thoảng đây đó có tổ chức hát bội, thường là vào dịp đầu tháng giêng. Khi thì hát ở thị tứ An Thái (Nhơn Phúc), khi thì ở chợ An Thành (Nhơn Lộc) và chủ yếu là hát ban ngày từ sáng đến trưa, thỉnh thoảng cũng có nơi hát cả ngày. Vì ban đêm bọn lính thường đi tuần, lùng sục, không ai dám ra khỏi ngõ. Đợt hát dài kéo dài ba bốn ngày, đợt ngắn cũng một ngày. Dù xóm tôi ở cách xa nơi hát hàng cây số, nhưng cả xóm trong các ngày diễn ra đợt hát như có ngày hội, vì hầu như người lớn, trẻ con đều thích hát bội. Mỗi khi nghe tiếng trống tuồng là trong lòng tôi náo nức một niềm vui kỳ lạ… Mẹ tôi mặc áo dài, tôi xúng xính trong chiếc quần kaki xanh, áo trắng cùng những người trong xóm đi xem hát bội. Từ xa đã nghe tiếng trống chầu giục giã. Khu vực sân khấu thường là bãi đất trống hoặc vùng ruộng vừa gặt xong. Trong lúc mẹ tôi loay hoay tìm chỗ đứng thuận lợi để xem cho rõ, thì tôi hay chạy đây đó nên bà cứ nắm tay tôi vì sợ lạc. Vậy nhưng, hễ sơ hở là tôi đã vuột khỏi tay. Có khi tôi chui vào tận phía sau sân khấu để xem các đào, kép vẽ mặt, sờ thử bộ râu Quan Công dài mượt… treo trên vách phên. Rồi đứng nhìn ông già đánh trống chầu gương mặt trang nghiêm mắt dõi theo từng động tác diễn viên trên sân khấu, mà tay dùi thì cứ nện từng tiếng trên mặt trống… tùng, tùng, tùng…
Dù náo nức, nhưng xem hát bội ban ngày có phần đơn điệu hơn ban đêm. Buổi tối dưới ánh sáng đèn điện sân khấu tuồng trở nên ấm cúng, trang trọng… Ấy là thời gian sau ngày 31-3-1975, khi quê hương Bình Định hoàn toàn giải phóng, hát tuồng như nở rộ khắp huyện. Lòng người như cá gặp nước, phong trào văn nghệ phát triển mạnh như ca nhạc, cải lương, nhưng hát bội vẫn có chiều sâu, tiếng trống tuồng vẫn vang vọng hơn cả. Người mê tuồng nghe ở đám nào có các nghệ sĩ tên tuổi như Hoàng Chinh, Tư Cá, Long Trọng, Lệ Siềng, hề Công… là dù đường xa lặn lội đến mấy cũng đi xem cho bằng được. Có nơi tổ chức hát bội cả tuần lễ đêm nào cũng có, có người xem hát bội lâu đến nghiền. Hát tuồng có sức hút như World Cup, ngày làm lụng mệt mỏi nhưng đến chiều nghe tiếng trống tuồng là đi… Tôi nhớ ở gần nhà tôi lúc đó có vợ chồng anh ba Vịnh mê hát bội đến nỗi quên cả công việc đồng áng. Dù nông vụ thế nào, mỗi chiều khi nghe tiếng trống tuồng là vợ chồng anh xếp cày cuốc về nhà sớm để kịp đi coi hát. Sợ mang con nhỏ theo con ngủ gật xem không hết buổi, chị ba thường đem gởi mấy đứa nhỏ cho bà nội tôi… "Hát bội làm tội người ta. Đàn ông bỏ vợ đàn bà bỏ con", "Nghe tiếng trống chầu đâm đầu mà chạy…" là như thế. Bà nội tôi bảo: "Khổ cho mấy đứa nhỏ, nhưng biết sao được". Rồi bà kể thời nhỏ của bà cũng như vậy. Hồi đó thường hát đình, hát miễu cũng vào dịp tết, tiền thuê bạn hát do người làng đóng góp hoặc những nhà giàu có trong làng bỏ tiền hát để cầu an. Nhờ những đêm hát bội mà ông nội tôi mới cưới được bà, vì bà tôi con nhà giàu, còn ông tôi nhà nghèo, ngày thường khó đến nhà để nói chuyện, chỉ chờ những đêm hát bội... "Mấy mươi năm chiến tranh loạn lạc, ban đêm có ai dám ra khỏi ngõ, nay được giải phóng để cho chúng nó tha hồ". Bà tôi tỏ ra thông cảm.
Không là người sành điệu, nhưng tôi nhớ khi còn là chú bé mười bốn tuổi nghe tiếng trống tuồng là tôi đã nghĩ đêm hát ngay. Cứ nghe trống thúc rộn rã là biết được khung cảnh của sân khấu tuồng lúc ấy như thế nào. Đó là lúc diễn viên hát hay múa đẹp, tôi cảm thấy người ta đang chen lấn nhau trước sân khấu, còn diễn viên thì được thưởng liên tục bằng những chiếc thẻ ném lên sân khấu… Dù chưa phân biệt được nhân vật nào trung, kẻ nịnh… trên sân khấu tuồng nhưng tôi cũng hình dung diễn viên nào mặt đỏ, râu dài dáng vẻ chững chạc, đi đứng khoan thai là người trung, còn kẻ nịnh thường mặt mốc râu rìa mắt đảo láo liên, tiếng cười he hé…, anh hề thì hay châm chích những ông quan áo mão cao sang mà "sâu dân mọt nước"…
Đêm đã khuya, tiếng trống tuồng chưa dứt, người xem dần nới ra, kẻ ra về, người vào chiếu bánh, cháo bên ngoài ăn tạm rồi tiếp tục xem cho hết vở tuồng, có khi là đến quá nửa đêm. Khi vãn tuồng đường thôn rộn rịp, người đi râm ran bình phẩm ông này đóng vai hay, ông kia chưa được, bà Lệ Siềng tuổi đã già mà sao khi trang điểm lên sân khấu cứ trẻ như gái mười tám, đôi mươi, lại đẹp mê hồn… Đến khi gà gáy sáng lần đầu, về đến nhà ngủ bên tai tôi như còn văng vẳng tiếng trống tuồng, và cứ thế tiếng trống ru tôi vào giấc ngủ. Để sáng hôm sau, khi ra đồng hoặc trong đám giỗ nào đó người ta vẫn còn bàn tán về vở tuồng này, vở tuồng nọ, về ông Chinh, ông Cá… và cao hứng có người còn đứng lên diễn lại vài đoạn tuồng.
Mấy mươi xa cách đi khắp nơi, gặp lại những người quê mình, tôi như còn nhận thấy trong dáng dấp cách ăn, cách nói, tình cảm của họ mang bóng dáng của những nhân vật mà mình ưa thích trong tuồng: khẳng khái, ngay thẳng. Từ những nhân vật trong tuồng, không biết tự lúc nào trong tôi có những linh cảm về những con người ngoài cuộc đời có gì đó không khác nhau mấy. Người trung thường hay gặp nạn, kẻ nịnh hót lại được vinh thân phì da, nhưng cuối cùng trung chính vẫn thắng gian tà. Và cứ thế tiếng trống hát tuồng vọng mãi trong tôi. Bởi thế, dù bao đổi thay ngoài đời, nhưng có lẽ trong lòng mỗi người dân quê tôi vẫn còn có một trung hiếu của Quan Công, một chút nóng nảy nhưng tiết nghĩa của Trương Phi, một chút khoan dung của Lưu Bị…
Bây giờ ở quê tôi, tiếng trống tuồng vẫn vang vọng đây đó, nhưng người thưởng lãm say mê thì không còn như xưa…, không hiểu do người xem đã chán tuồng, hay do tuồng không còn lôi cuốn được người xem, nhất là lớp trẻ, vì cuộc sống đã ngày càng đổi mới, có nhiều thứ để người ta xem…
. Thanh Trúc |