Từ trên đỉnh đèo An Khê nhìn xuống, xã Bình Giang như một dải lụa màu xanh chạy dọc hai bờ sông Kôn, ba bên được bao bọc bởi núi, con đường 19 như cột sống uốn theo chiều dài của xã. Do vị trí chiến lược vùng cửa ngõ lên Tây Nguyên, suốt những năm tháng chiến tranh, bom đạn đã cày xới quê tôi, không chừa một tấc đất. Từng con người, lá cây, ngọn cỏ phải vươn lên để sống, nước sông Kôn bao lần thắm đỏ máu những đứa con đánh giặc giữ làng. Và giờ đây, những con người đi tiếp cùng ra sức biến một vùng quê đìu hiu, xơ xác vì chiến tranh trở thành một Bình Giang trù phú như hôm nay (Bình Giang nay được tách ra 2 xã là Tây Giang và Tây Thuận thuộc huyện Tây Sơn).
Thế hệ chúng tôi, tuy được sinh ra giữa cuộc chiến tranh nhưng còn quá nhỏ để hiểu về nó. Dù vậy, có những hình ảnh mà tôi gặp đã trở thành ký ức không bao giờ quên về mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Một lần về thăm quê ngoại vào giữa năm 1973, khu chợ cũ Đồng Phó lúc bấy giờ chỉ lèo tèo vài túp lều nhỏ nằm cạnh đường 19, đang rong chơi giữa trưa hè, tôi như sững lại khi thấy có 4 xác người đang bị phơi nắng trên một hiên chợ. Cách đó không xa, nấp sau cánh cửa sổ của ngôi nhà bên cạnh, có những người thân là mẹ, là vợ, là con thơ của họ đang lau vội những giọt nước mắt để giấu đi nỗi đau tột cùng trước những họng súng đang canh gác của kẻ thù. Vượt lên cái hồn nhiên vốn có của tuổi thơ, tôi tự hỏi rằng: Có còn nỗi đau nào hơn khi phải âm thầm chứng kiến những người ruột thịt đang phơi mình trong cái nắng chang chang giữa trưa hè? Và tôi đã nhận ra rằng: Những người nằm đây và kể cả những người còn sống kia, họ đang chấp nhận những hy sinh mất mát không phải vì mục đích cho riêng họ. Mãi đến sau này, khi lớn lên tôi mới hiểu nhiều hơn về những tàn khốc của chiến tranh. Không ai khác chính những người đã nằm xuống ấy là những chiến sĩ du kích của quê mình, những người đã sẵn sàng ngã xuống cho quê hương sớm được bình yên.
Hết ấp chiến lược Vườn xoài đến khu dồn dân "Hòn Lãnh Lương", sau những cuộc càn quét của lính Mỹ là tội ác của lính Đại Hàn, rồi tiếng súng lùng sục của các Trung đoàn 42, 47 ngụy quân. Một không gian ảm đạm luôn bao trùm lấy quê tôi, người dân quanh năm chỉ lo chạy giặc, họ đâu còn thời gian để cày cuốc, để nghĩ đến chuyện ruộng nương. Cánh đồng Tiên Thuận hôm nay trù phú là thế, vậy mà ngày ấy cỏ dại, lau lách mọc cao hơn đầu người, mảnh bom đạn đã phăng ngang những cây cổ thụ có tự bao giờ, lũy tre sau làng xơ xác phơi ra một màu đen xì của tang tóc, đau thương. Con đường tỉnh lộ 637 lúc đó chỉ rộng hơn 2m, rất um tùm khó đi lại. Lũ trẻ cùng trang lứa với chúng tôi làm gì có điều kiện để đi học, mặc dù có nhiều đứa đang khao khát đến cháy lòng được cắp sách đến trường. Cả xã số người học đến cấp 2, cấp 3 chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Rồi mùa xuân đại thắng năm 1975 đã đến, tôi có cảm tình đặc biệt với những người cách mạng vừa bước ra khỏi cuộc chiến. Họ giản dị nhưng rất thanh cao. Một bà hàng xóm của tôi có chồng là hạ sĩ quan chế độ Sài Gòn đang cải tạo ở trại Vĩnh Thọ (huyện Vĩnh Thạnh), khi đang ở giai đoạn gần mãn hạn tập trung, gia đình có người mất, rất cần sự chiếu cố của trại cho chồng bà về nhà để thọ tang; đáp lại sự giúp đỡ này, bà đã có một món quà biếu riêng cho trưởng trại cải tạo gồm 2 lượng vàng, 1 đồng hồ Omega, 1 quả bánh ngọt. Nhưng thật bất ngờ, vị quản giáo đại úy Võ Mai Bằng (sau này là chủ tịch UBND xã Bình Giang) đã từ chối 2 lượng vàng cùng chiếc đồng hồ đắt tiền kia, chỉ nhận 1 quả bánh để chia cho anh em trong trại, dù biết rằng ông xuất thân từ một gia đình vô cùng nghèo khó ở xã tôi rồi lớn lên giác ngộ theo cách mạng với hai bàn tay trắng. Chính cuộc chiến đấu đầy ác liệt đã hun đúc nên những người con của quê tôi có bản lĩnh và phẩm chất tuyệt vời, từ chỗ khâm phục tôi đã có cái nhìn đầy đủ hơn về chân dung người đảng viên cách mạng đã qua thử thách.
Hòa bình lập lại, quê tôi đã nhanh chóng hòa nhập cùng những đổi thay của đất nước, những người con xa quê vì bom đạn đã trở về. Phát huy thế mạnh của một vùng bán sơn địa, ban đầu đột phá từ cây thuốc lá, sau đó là vùng trọng điểm mía của cả tỉnh với diện tích hơn 1.000 héc-ta đã sớm giúp cho người dân trong xã thoát khỏi cảnh cơ cực như ngày nào, nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đúng hướng, đời sống bắt đầu khấm khá, có của ăn của để. Bên cạnh khu thị tứ Đồng Phó ngày càng sầm uất nhờ giao thương và tiểu thủ công nghiệp, Tây Thuận vốn là vùng quê nghèo nhất trong xã nay cũng đã đạt mức bình quân thu nhập đầu người 3,5 triệu đồng/năm… Mức tăng trưởng GDP hằng năm đạt hơn 1,1%. Những con đường xưa kia chỉ là "lối mòn" nay đã được nhựa hóa, bê tông hóa gần hết chiều dài. Ống khói nhà máy đường, rồi nhà máy phân bón vi sinh, nhà máy ván ép Tả Giang lần lượt ra đời như biểu tượng cho vóc dáng bề thế của một địa phương, như mở ra một hướng đi đầy triển vọng cho những nông dân thời công nghiệp ở quê tôi. Tại xã cũng đã có trường cấp 3, con em không còn phải khát chữ như ngày xưa, tốc độ hồi sinh sau hơn 30 năm ở Bình Giang nay nhìn lại như thể trước đây trên mảnh đất này chưa hề có chiến tranh.
Những ký ức thời niên thiếu sẽ còn sống mãi trong tôi, nó như luôn thôi thúc mình phải sống xứng đáng cho một thời của quá khứ hào hùng, và cho cả công cuộc đổi mới đang diễn ra hằng ngày trên quê hương tôi.
. Thái Bình Trọng |