Hiếm có một vùng quê nào ở miền Trung mà nhiều sông ngòi như ở An Nhơn. Bởi là nơi bắt đầu rẽ nhánh, phân chi của sông Kôn từ Vĩnh Thạnh chảy xuống, rồi được hợp với sông An Tượng từ An Trường chảy ra, nên càng tạo thêm nhiều dòng chảy chi chít đổ về hạ bạn rồi ra biển Đông.
Ngày xưa, khoảng giữa thế kỷ 20 về trước, giao thông đường bộ chưa phát triển, các nhánh lớn của sông Kôn như sông Thạch Yển (bắc phái), sông Gò Chàm (trung phái), sông Tân An (nam phái) là những tuyến giao thông đường thủy vận chuyển hàng hóa, thuyền buồm tấp nập từ biển lên nguồn để "măng le chở xuống, cá chuồn chở lên". Cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp, nơi dừng chân của bao thương khách người Việt, người Hoa càng làm cho những phố chợ hai bên sông hưng thịnh, sầm uất như An Thái, Gò Chàm, Đập Đá, Gò Găng, Phú Đa... từng nổi tiếng.
Lớp người trạc tuổi như tôi trở về trước, ai đã sinh ra và lớn lên từ mảnh đất nặng phù sa sông Kôn này mà không một thời có những kỷ niệm với con đò, bến nước. Từ thuở cắp sách đến trường, nhất là học sinh ở các xã Nhơn Hòa, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Phúc... sông nước chia cắt, ai mà không cõng chữ qua sông để lớn lên cùng cái chữ, cùng với quê hương.
Sáng sáng, những cậu học trò tiểu học đi chân đất, vội vã lót dạ mấy miếng cơm nguội với muối đậu, muối mè cắp sách chạy ra bến đò sang sông để kịp vào lớp học. Tan trường, chưa chịu qua đò về nhà ngay, mà lũ chúng tôi còn cởi quần áo trùng trục, bỏ sách vở trên bờ sông nhảy xuống dòng nước trong xanh lặn hụp cho đến khi đói rã ruột mới chịu về để ở nhà cha mẹ chờ cơm. Học sinh ở vùng sông nước tinh nghịch, vậy nên đứa nào cũng biết bơi. Đến kỳ nghỉ hè tha hồ chạy nhảy trên bãi cát, thả diều, chơi trò bịt mắt bắt dê, u quạ, đánh trận giả…
Trong những bến đò lớn, nhỏ thì bến Trường Thi, bến An Thái, bến Thị Lựa, bến Bàu Sáu… là những bến đò lớn, tồn tại khá lâu, bởi là tuyến giao thông lớn đông người qua lại, và dòng sông rộng, nước sâu quanh năm cá lội biệt tăm. Nguồn lợi thủy sản dồi dào, các làng ven sông sống bằng nghề đánh bắt cá, họ dùng dụng cụ lưới, chài hoặc giăng câu chứ không xung điện, đánh thuốc nổ như ngày nay.
Bến đò Trường Thi trên sông Tân An, nơi ở phía nam bờ sông thời đó có trường thi Bình Định (1852-1915), thuộc làng Hòa Nghi (xã Nhơn Hòa) hội tụ các sĩ tử các tỉnh Nam Trung bộ, quê ngoại của nhà thơ Yến Lan, còn bên này sông là quê nội, ở ngay Thành Bình Định. Bến Trường Thi thơ mộng, cát bồi nhiều năm tạo nên giống đôi chân mày phụ nữ, nối đôi bờ quê nội - ngoại của nhà thơ Yến Lan, đẹp đến độ tạo cảm hứng để ông sáng tác thi phẩm "Bến My Lăng" nổi tiếng, chắp cánh cho sự nghiệp văn chương của cố thi sĩ này.
Còn bến đò An Thái là nơi gắn với miền đất võ nổi tiếng từ thời Tây Sơn khởi nghiệp, bờ bên này sông Kôn là An Thái, bên kia sông là An Vinh, khúc sông rộng đến gần cây số và sâu nhất, quanh năm thuyền bè tấp nập. Phố chợ An Thái sầm uất, hưng thịnh một thời nằm bên bến An Thái. Nguyễn Nhạc đã từng xuôi thuyền qua bến sông này từ thuở còn là anh Hai trầu đi buôn trầu trên sông Kôn.
Nói đến bến đò Thị Lựa, chính là nơi nhánh sông bắc phái chảy xuống Thạnh Yến gặp nơi đầu con sông La Vĩ tạo thành ngã ba sông. Tương truyền nhánh sông này do vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc sức dân đào sông đắp lũy bao quanh mặt tây-bắc thành Hoàng đế. Bến Thị Lựa người đi qua lại tấp nập từ các xã phía tây đổ về Đập Đá và khu Đông.
Trên đây chỉ là một số bến đò lớn nối các tuyến giao thông quan trọng, còn rất nhiều bến đò ngang trong huyện. Từ khi còn đi học trường làng, trường xã đến khi lớn lên đi học trung học ở thị trấn Bình Định, quê tôi - làng Hòa Phong (Nhơn Mỹ) như cái ốc đảo nên tôi đi qua hầu hết các bến đò. Song kỷ niệm nhiều nhất đối với tôi suốt mấy năm học cấp 1 là mấy năm liền đi qua bến đò Bàu Sấu. Bến đò nằm ngay nơi gặp nhau giữa hai dòng nước đục và trong, dòng nước sông Kôn trong xanh chảy xuống đến cuối làng Đại Bình gặp dòng nước đục ngầu sâu thăm thẳm của Bàu Sấu, ngày xưa có cá sấu, dưới chân hòn núi Kỳ Đông. Nơi đây, đã từng ghi bao chiến tích của nghĩa quân Cần Vương do đích thân tướng soái Mai Xuân Thưởng chỉ huy trong trận thư hùng, thủy bối với quân Pháp và lính Nam Triều. Và sau này, bến Bàu Sấu đã tiếp tục lập bao chiến công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có lẽ do hai dòng nước đục-trong hợp lưu nên bến Bàu Sấu thời ấy cá nhiều lắm, nhất là đến mùa cá lúi, để khi hết lụt hàng vài chục ngư dân tập trung nơi ngã ba sông đứng trên sõng tung chài bắt cá, có mẻ chài kéo lên hàng thúng cá lúi trông thật sướng mắt.
Ngày nay, các dòng sông do thiên nhiên và do cả con người tạo nên bị bồi lấp cạn dần và lòng sông cũng hẹp hơn trước, mấy chục năm gần đây không còn hình ảnh những đoàn sõng trương buồm trong gió đưa hàng từ dưới xuôi lên miền núi và ngược lại. Và trên các dòng sông đã không còn trông thấy những ngư dân tung chài bắt cá lúi, không còn những thợ lặn lặn dưới hóc bụi tre (bờ cừ) ở những đoạn sông sâu bắt những con cá chép vàng lườm to đến hai nắm tay. Ông lái đò sau cùng cũng là dân chài lưới, nhà ở bên sông và gần nhà tôi đã ở tuổi xưa nay hiếm, thỉnh thoảng ông vẫn đội nón ra đứng bờ sông nhìn sang bên Bàu Sấu đã khô cạn, ngọn núi Kỳ Đông đã trơ trụi, không còn cây cao như xưa và đang bị lấy đất nham nhở.
Những năm gần đây, những chiếc cầu tre, cầu ván được bắc qua sông thay cho bến đò xưa ở bến An Thái, bến Thị Lựa... Đặc biệt là bến Trường Thi đang khẩn trương thi công chiếc cầu bê tông vĩnh cửu, mở rộng không gian đô thị của huyện lỵ An Nhơn và là thị xã trong tương lai gần, từ thị trấn Bình Định đến khu công nghiệp phía nam quốc lộ 19. Chỉ riêng có bến đò Bàu Sấu là vắng vẻ không còn ai qua lại, bởi con đường qua sông đã chỉnh tuyến.
Những chiếc cầu bê tông cốt thép đã và đang lần lượt được thi công thay dần những chiếc cầu tre lắc lẻo để kịp tiến trình của lịch sử trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, làm đổi mới bộ mặt nông thôn. Đó là mơ ước bao đời của người dân vùng sông nước đã thành hiện thực.
Dù bến xưa có nơi bên bồi, bên lở, những chiếc đò nan chở vài ba chục người sang sông đã không còn. Nhưng vẫn còn mãi trong ký ức của tôi hình ảnh con đò, bến nước và vẫn nhớ như in tiếng gọi đò khi đêm đã về khuya của những người đi lỡ đường, những người đàn bà trở dạ, những người mẹ kẽo kẹt trên vai gánh rau đi chợ sớm... Và chắc chắn không chỉ riêng tôi, mà của bao người từng sinh ra và lớn lên ở vùng đất lắng đọng phù sa này. Bến nước, con đò cũng sẽ mãi là di sản quý báu, mặc dù những chiếc đò nan chưa được đưa vào lưu giữ trong một bảo tàng nào, nhưng nó sẽ mãi mãi đi cùng năm tháng với quê hương
. Trần Duy Đức |