Từ năm 1901, giải Nobel Văn học - giải thưởng văn chương cao quí nhất hành tinh bắt đầu trao cho các nhà văn xuất sắc hàng năm. Giải thưởng này thường được các vị giám khảo chấm trên cơ sở những nhận định thẩm mỹ - văn hóa - tư tưởng có tính phương Tây. Tuy vậy cũng đã có tới 5 lần họ tôn vinh các nhà văn châu Á.
* Rabindranath Tagore (1913)
Rabindranath Tagore sinh năm 1861 ở Calcuta trong một gia đình quí tộc theo đạo Hindu. Năm 1913, tập ''Thơ Dâng'' (Offerings from the heart) đã đưa ông lên vị trí vinh quang với lời đánh giá của Hội đồng Nobel: ''Qua những vần thơ đẹp lộng lẫy, tươi tắn, xúc cảm thẳm sâu, cùng bút pháp đa dạng, (ông) đã nói lên được những suy tưởng thi ca của mình, thể hiện bằng ngôn ngữ tiếng Anh của chính mình, như một bộ phận của văn học phương Tây''. Năm 1915, ông được Hoàng gia Anh phong tước Hiệp sĩ. Ông nổi tiếng khắp thế giới như một nhà triết học, một nhà giáo dục, một thi sĩ. Nhân dân Ấn Độ tôn ông như một vị Thánh...
* Shamuel Yosef Agnon (1966)
Về mặt kinh tế, chính trị và... thể thao, Israel được xếp vào các nước châu Âu, nhưng về địa lý tự nhiên thì Israel vẫn là một nước châu Á nên Giải Nobel Văn học trao cho hai nhà văn, Shamuel Yosef Agnon (Israel) được tính cho châu Á [cùng nhận giải này với Agnon còn có Nelly Sachs (Thụy Điển)].
Được mệnh danh là "con người mang thiên tài bền vững" và "một trong những người kể chuyện vĩ đại của thời đại chúng ta", Agnon nằm trong số những tác giả Do Thái được dịch rộng rãi nhất (18 thứ tiếng). Tác phẩm của Agnon đề cập tới những vấn đề tâm lý và triết học quan trọng vào bậc nhất của thế hệ ông. Suốt cuộc đời làm một người Do Thái nhạy cảm, ông luôn có khả năng nắm bắt được ''nỗi tuyệt vọng và cảnh hoang lạnh tinh thần'' của một thế giới đang đứng bên ngưỡng cửa của thời đại mới. Ông sinh năm 1888 ở Galicia, mất năm 1970 ở Jerusalem.
* Yasunari Kawabata (1968)
Ông sinh năm 1899, mất ở Zushi (Nhật Bản) ngày 16-4-1972 (do tự sát). Giải Nobel văn học trao cho Yasunari Kawabata, nhà văn Nhật với lời đánh giá: "Nghệ thuật kể chuyện tinh tế cùng sự nhạy cảm cao độ, đã thể hiện được nét tinh túy trong tâm hồn Nhật Bản". Trong tác phẩm Cố đô (The Old Capitan), nghệ thuật kể chuyện mang tinh ẩn dụ có mặt khắp nơi. Một đôi nam nữ ngồi với nhau và nói về mùa anh đào nở; hai chị em ruột sau bao biến động gặp lại nhau, họ vừa nói chuyện vừa lắng nghe trong đêm tiếng sấm động trên đỉnh núi... Người đẹp và nỗi muộn phiền (Beauty and Sadness), Cố đô (The Old Capitan), Người đẹp say ngủ (House of the Sleeping Beauties), Xứ tuyết (Snow Country), Ngàn cánh hạc (Thousand Cranes), Tiếng rền của núi (The Sound of the Mountain)... là những kiệt tác đã được dịch ra tiếng Việt.
* Kenzaburo Oe (1994)
Nhật Bản là quốc gia thuộc châu Á có tới hai nhà văn được nhận giải Nobel Văn chương, người thứ nhất ta đã biết, người thứ hai là Kenzaburo Oe. Theo đánh giá của hội đồng Nobel, ông là "người, cùng với quyền năng của thi ca, đã sáng tạo ra một thế giới mộng tưởng, nơi cuộc sống và huyền thoại thẫm đặc lại, tạo nên một bức tranh gây bối rối cho những xác tín của con người hôm nay". Trên thế giới ông là nhà văn sáng chói, và là người theo chủ nghĩa hòa bình qua các cuốn sách Ghi chép Okinawa. Hikari - con trai Oe, bị tật não bẩm sinh, nhưng cậu lại có một tâm hồn trong sáng và trái tim nồng hậu. Con trai ông viết rất nhiều nhạc cổ điển, còn ông thì viết về cuộc sống, về quá trình nuôi dưỡng con ông. Ông nói rằng "Tôi được giải, nhưng xin tạ ơn những tài năng của nền văn học hiện đại Nhật Bản. Tôi nghĩ mình đoạt giải chỉ bởi vì vẫn còn trẻ và đang sống". Oe là một kiểu James Joyce của nước Nhật. Ông có một văn phong độc đáo và phức tạp đến mức ông được tôn kính nhiều hơn là được đọc ngay chính trên quê hương mình.
* Cao Hành Kiện (Gao Xingjian-2000)
Giải Nobel Văn học đầu thế kỷ 21, và cũng là đầu thiên niên kỷ thứ ba được trao cho một tiểu thuyết gia người gốc Trung Quốc, nhà văn Cao Hành Kiện (Gao Xingjian) với tiểu thuyết Linh Sơn (đã được dịch ra tiếng Việt). Ông khởi đầu làm nghề phiên dịch tiếng Pháp ở Hội Nhà văn, sau sang Pháp định cư, viết kịch, vẽ tranh để sinh sống. Linh Sơn là một cuốn tiểu thuyết vừa gần gũi lại vừa xa lạ với truyền thống phương Đông. Về bút pháp và cấu trúc nó được viết theo phong cách Âu châu, nhưng về nội dung và không gian truyện, nó nhuốm màu sắc phong vị Thiền. Bản chất của cuộc đi tìm ngọn núi thiêng là cuộc thăm dò ngày càng sâu, ngày càng muôn vẻ hơn vào bản ngã, cái được hình thành nên bởi truyền thống, truyền thuyết, huyền thoại, lịch sử, tư tưởng và những cái ít vai trò hơn như địa lý, phong thổ... Cái khó nhất của cuộc thăm dò này là tính độc lập phải tuyệt đối, điều này đã được Cao Hành Kiện phân tách một cách lạnh lùng thành "tôi" và "mi" cùng những suy tưởng muôn vẻ. Kết thúc cuốn sách, ông đã dùng một ẩn dụ về Thượng đế qua cặp mắt con ếch, và dường như ngọn núi ấy cũng không hề tồn tại, nghĩa là tư tưởng về ngọn núi ấy đã không còn vọng khởi. Có nhiều đánh giá trái ngược nhau về ông trong giới văn học.
HIỀN NHÂN