Sổ tay thơ:
Lý ngựa ô đương đại
8:32', 31/3/ 2003 (GMT+7)

NHỮNG VÒNG XE ĐẠP

Hãy ôm chặt nữa đi em

Như  thời son trẻ êm  đềm ngày xưa

Hẹn hò sớm đón chiều đưa

Vòng xe đạp lượn nối mùa yêu thương.

           

Ta từng vượt những dặm trường

Áo cơm vương víu nẻo đường thi ca

Chung lòng tát cạn giang hà

Yên nhôm khung sắt hóa ra kiệu vàng.

 

 Bon bon xe đạp cà tàng

Vợ chồng con cái dọc ngang  đất trời

Băng qua thế  kỷ hai mươi

Cười ngờm ngợp mắt, thở sùi sụt tai…

(NGUYỄN THANH  MỪNG - Tuyển thơ Việt Nam hiện đại 1975 – 2000)

 

Lời bình:

Bằng những tín hiệu thẩm mỹ của thi ca, bài thơ thông báo với chúng ta, nếu nói bằng văn xuôi, thì như sau :

Đây là tiểu gia đình một nhà thơ nghèo nhưng hạnh phúc. Hai vợ chồng cùng “nuôi chí lớn” trong văn nghiệp. Dẫu đã con cái đèo bòng, họ vẫn yêu nhau như thuở ban đầu và lạc quan qua mọi gian lao của đời thường. Việc tóm tắt nội dung bài thơ (một việc đáng ra không bao giờ nên làm) tôi có cái thú vị là đã nói hầu như đầy đủ mọi thông báo cũng bằng đúng 48 từ, 48 âm vị của bài thơ, nhưng thật buồn là tôi đã làm cái việc “dã man”: bẻ đôi cánh của chú chim đang bay, khiến chú nằm quay ra đó, tuy đếm không thiếu một chiếc lông vũ nào, nhưng đó chỉ còn là cái xác chim, còn cái thần thái, sức bay của nó thì đã bị hủy diệt!

So sánh như vậy để thấy hiệu ứng thi ca của một bài thơ hay nó tác động đến thế nào tới người đọc!

Ngôn ngữ thơ thông thường là súc tích, ngắn gọn hơn văn xuôi mang cùng thông báo ấy. Nhưng khi cần nó vẫn giãn ra để thu tóm mọi sắc thái của một hoàn cảnh, một thời điểm:

Hãy ôm chặt nữa đi em

Như  thời son trẻ êm  đềm ngày xưa

Hẹn hò sớm đón chiều đưa

Phương tiện của yêu thương chỉ là chiếc xe đạp để nói cảnh nghèo của tác giả, nhưng chiếc xe đạp ấy lại có khả năng vẽ lên bức tranh hạnh phúc: Vòng xe đạp  lượn nối mùa yêu thương.

Khổ 2, vẫn chiếc xe đạp thô sơ ấy đã mang đôi bạn tình qua mọi dặm trường, nhưng đây là dặm dài của thời gian: nẻo đường thi ca. Khi họ cùng chung chí hướng “thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn” nữa là tát cạn giang hà, thì chiếc xe thô sơ yên nhôm khung sắt ấy có thua gì một chiếc kiệu vàng để “đón nàng về dinh”!

Khổ cuối là khúc ca khái quát về lòng tự hào (và tự trào) của tác giả: ta tuy nghèo vậy nhưng vẫn dọc ngang trời đất như ai mà vượt sang thế kỷ mới, dẫu có vất vả hơn người đôi chút:

Bon bon xe đạp cà tàng

Vợ chồng con cái dọc ngang  đất trời

Băng qua thế  kỷ hai mươi

Tác giả đã phát hiện ra thật chính xác thần thái của người đạp xe đường trường: cười ngờm ngợp mắt, thở sùi sụt tai (thấy cả mồ hôi trên mi mắt và hơi thở ra đằng tai của họ).

Khai thác mặt đối lập, đặt chúng cạnh nhau để làm nổi bật ý đồ là thủ pháp thường dùng của thơ, nhưng mỗi nhà thơ sử dụng một khác. Nguyễn Thanh Mừng mở riêng cho mình một cách đi: anh thường dùng hệ thống từ Hán Việt với những khái niệm, từ ngữ ước lệ thời “thanh gươm yên ngựa” xa xưa đặt lẫn vào những chi tiết đời thường ngày hôm nay, làm cho cái đời thường trở nên lấp lánh, không phải để làm sang mà để đùa cợt, tự trào: kiệu vàng bên yên nhôm khung sắt, rồi tát cạn giang hà, dọc ngang trời đất… Hẳn đó là âm hưởng vùng đất văn hóa lịch sử từng vang động thuở thiếu thời của tác giả?

Đây là một bài ngựa ô dành suy tôn con ngựa sắt xe đạp, sang trọng chẳng kém gì, mà lại “hiện đại”, với giọng tự  trào có duyên của tác giả. Cười trên  nỗi gian lao, gian lao chỉ còn một nửa mà phẩm cách người thì đáng trọng gấp hai!

Cũng cần giới thiệu thêm với độc giả: Nguyễn Thanh Mừng là nhà thơ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bình Định, Tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Bình Định. Vợ anh là Trần Thị  Huyền Trang, cây bút trẻ đang sung sức có nhiều truyện ngắn hay và thơ hay xuất hiện trên các mặt báo.

. Vân Long

 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Kẻ sĩ Bình Định dưới ngòi bút Vũ Ngọc Liễn  (30/03/2003)
Cái răng  (30/03/2003)