Văn hóa ẩm thực dưới mắt các nhà văn
17:42', 23/6/ 2003 (GMT+7)

Nhân dân ta xưa nay vốn trọng cả yếu tố tinh thần lẫn vật chất. Có một phong cách là sự kết hợp cả hai yếu tố trên, đã được đúc kết lại một cách sinh động trong thực tiễn cũng như trong những trang văn, truyền từ đời này đến đời khác, làm giàu thêm bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là phong cách văn hóa trong ẩm thực (ẩm: uống, thực: ăn).

Nhà văn Nguyễn Tuân có lần đã nói: "Tại sao trong từ điển không có từ nào phong phú bằng từ ăn, nó có thể là một trợ động từ tạo nên 180 từ và động từ khác nhau: ăn cắp, ăn cướp, ăn nằm..., như thế là cái chuyện ăn đi vào đời sống con người cũng sâu rộng lắm chứ? Đã ăn lại đi với nói nữa thì thật vui!" (Về thể ký. Công việc viết văn. Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản).

Khắp đất nước, mỗi vùng đều có một kiểu hoa trái, sản vật khác nhau và từ đó có những kiểu ẩm thực không như nhau.

Với người Thăng Long-Hà Nội "ăn Bắc, mặc Kinh" nổi tiếng là thanh lịch cả trong văn hóa tinh thần lẫn cách ăn mặc, chế biến món ăn tinh vi khéo léo, thưởng thức một lần khó quên. Đó là cách chế biến món ăn để thưởng thức cái ngon, đẹp mắt chứ không để lấy no, lấy đủ.

Trong bữa ăn, người Huế ưa ăn các món ăn đa dạng, hỗn hợp dù mỗi món chỉ dùng một ít. Trong chế biến cũng như trong ăn uống, người Huế thích phải tinh vi, tỉ mỉ, cầu kỳ, thể hiện ý thức mỹ cảm rõ rệt, con người ăn uống không chỉ thỏa mãn nhu cầu sinh tồn mà còn thưởng thức cái mà mình sáng tạo ra. Ăn uống lối Huế còn được chú ý tới môi trường tự nhiên và xã hội trong khi ăn uống, tức ăn uống ngon phải trong khung cảnh phù hợp, thưởng thức món ăn phải có bạn bè, người thân quần tụ.  Vậy, "suy cho cùng, lối nấu, lối ăn cũng như toàn bộ lối sống của Huế là sản phẩm của văn minh nông nghiệp" (Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam).

Theo các nhà văn, văn hóa ẩm thực là một nghệ thuật nấu nướng, pha chế và nghệ thuật thưởng thức tinh tế, cầu kỳ mang đậm bản sắc dân tộc, ẩn chứa những triết lý sâu xa...

Nguyễn Tuân tự nhận mình có một "Nhãn quan ẩm thực". Nguyễn Tuân tiếp nhận cái ăn ở bình diện văn hóa-lịch sử. Ấy là vì ông tiếp cận không phải chỉ với vị giác mà còn là với một công trình nghệ thuật tinh tế, tuyệt vời mà ông gọi là "đỉnh cao của một dạng văn hóa dân tộc" (Giò chả). Ông nói đến một chén trà buổi sớm, hạt cốm mùa thu, bát phở mùa đông, miếng giò ngày Tết... Và mỗi chi tiết đều phập phồng linh hồn của đất nước. Chẳng hạn quanh chuyện bát phở (Phở), Nguyễn Tuân đã bày ra bao vấn đề to tát và bất ngờ. Đằng sau bát phở là nỗi truân chuyên của dân tộc. Vinh có, khổ nhục có với bao nhiêu là kỷ niệm. Nếu nói có một thứ văn hóa phở cũng không ngoa.

Nguyễn Tuân nói: "Tôi có một số bài viết về chuyện ăn uống, và người ta cũng thừa nhận tôi là "sành ăn". Thì nhà chính trị cũng phải nói đến cái ăn chứ? Khổng Tử bỏ nước Lỗ vì nó quên không biếu ngài mấy lạng thịt (...) Tôi xem nghề bếp núc (‘artta culinaire) là một trình độ của văn hóa văn minh. Thế là tôi viết bài Giò chả, đặc biệt ca ngợi món giò lụa của ta. Hai thằng nấu ăn giỏi thế giới là thằng Tàu và thằng Tây, nhưng mình vẫn có kiểu ăn ngon của dân tộc mình khắp Bắc, Trung, Nam cũng là một điều tự hào dân tộc chứ sao? (...) Món ăn dân tộc mình không chỉ có giò chả. Tại sao thằng Tàu lắm bờ biển, lắm cá như thế mà không biết làm nước mắm, chỉ có xì dầu? Ngay cả một sáng kiến của người nghèo như cái mẻ làm từ cơm nguội mà nhiều món ăn ngon của ta không thể thiếu nó" (Về thể ký, Sdd, tr 119-120).

"Hà Nội 36 phố phường" sành ăn, khéo mặc của Thạch Lam là những gì? Đó là những món ăn thanh đạm hay đặc sản, các hàng quà rong của Hà Nội, chỉ Hà Nội mới có hay Hà Nội mới quý từ bún riêu, bún chả, thang cuốn, nem chua, bánh đậu, bánh khảo... Ông viết: "Ăn quà cũng là một nghệ thuật, ăn đúng cái giờ ấy, và chọn người bán ấy mới là người sành ăn..." Chuyện ăn uống của Thạch Lam là chuyện người, chuyện văn hóa. "Một cách cầm đũa, một cách đưa thìa lên húp canh bảo cho người ta biết nhiều về một hạng người hơn là hàng trăm kho sách. Và nhất là những thức họ ăn... Bảo cho tôi biết anh ăn gì, tôi sẽ nói anh là người thế nào" (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học 1988, tr 206). Thạch Lam còn nói thêm: "Ăn và chơi, phải, đó là hai điều hành động trong ấy người ta tỏ rõ cái tâm tính, cái linh hồn của mình một cách chân thực" (tr 205).

Người ta còn nói rằng, xưa kia có ai đó đã soạn cuốn Tản Đà thực phẩm để nói về cái sành sỏi và cầu kỳ trong ăn uống của Tản Đà. Ai cũng biết, Tản Đà suốt đời sống đạm bạc, có thể nói nhiều lúc túng quẫn ít có dịp thưởng thức những của ngon vật lạ. Thế mà nhà thơ nghèo đã tổng kết thành 4 điều kiện cho một bữa ăn ngon:

Một là thức ăn ngon

Hai là lúc ăn ngon

Ba là chỗ ăn ngon

Bốn là người cùng ăn ngon

Câu chuyện Trạng Quỳnh đã "lỡm" Chúa Trịnh bằng món "Mầm đá" (Rau muống luộc chấm tương) có phải là tôn trọng một trong những qui tắc như Tản Đà nêu ra?

Có nhà nghiên cứu nói rằng, người Việt Nam đã ăn bằng tất cả các giác quan của mình. Chẳng hạn món bánh tráng trong nhiều bữa cỗ tiệc, hay nhiều món ăn khác như thứ "khai vị" là món ăn bằng tai, khi bẻ bánh tráng giòn giòn:

Có gì hơn mẹ với con, có chi bằng cơm với cá

Lục lạc kêu rang rảng, bánh tráng bẻ giòn giòn

Những ngọt bùi của quê má thân thương

(Xuân Diệu- Đêm ngủ ở Tuy Phước)

Nhắc đến chuyện ẩm thực không thể không nhắc đến nhà văn Vũ Bằng. Phương ngôn nói: Miếng ngon nhớ lâu, với Vũ Bằng điều đó càng rõ. Bởi vì, ông vào Nam, nhớ da diết miền Bắc đành giấu nỗi nhớ ấy vào mùa màng sản vật của miền Bắc. Với Miếng ngon Hà Nội (NXB Văn học 1990) và Thương nhớ mười hai (NXB Văn học 1979) là cả nỗi nhớ và cách ẩm thực riêng của ông. Cái ăn như tinh túy của hồn mình, đi đâu cũng da diết nhớ. Vũ Bằng viết: "Tâm tính người Hà Nội đổi thay, phố xá nhà cửa thay đổi, mà cái mặc của người Hà Nội cũng khác xưa, duy chỉ có một thứ không thay đổi là cái ăn người Hà Nội" (Miếng ngon Hà Nội). Miếng ngon phải thưởng thức cùng với thời tiết: chả cá thưởng thức vào những buổi tối mưa sa, gió lạnh, bánh đúc chấm tương mà ăn vào một buổi trưa thanh nhã, xa xa có tiếng ve kêu rền thì có thể ăn mãi mà không biết chán.

THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI, hay là 12 tháng thương nhớ đến mùa nào thức ấy với đất trời của Vũ Bằng. Những lúc ấy ông viết: "Nhớ không biết bao nhiêu, mà không biết nhớ gì. Nhớ tất cả mà không nhớ gì rõ rệt".

Thế đấy, ai bảo chuyện ăn uống không phải là chuyện của người, chuyện của văn hóa. Cần bảo tồn lắm chứ.

. Trần Xuân Toàn

 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Hoài Ân, tấc đất ngọn rau…  (22/06/2003)
Xin được cúng trước  (20/06/2003)
Làm vợ nhà văn - Âm thầm sau những trang viết  (20/06/2003)
Nhớ Quy Nhơn  (19/06/2003)
Báo chí phát huy văn hóa dân tộc chống tiêu cực  (19/06/2003)
Điệp khúc  (18/06/2003)
Núi Mò O  (18/06/2003)
Tính chất sông nước, sóng biển của văn học dân gian miền biển Bình Định  (17/06/2003)
Những góc khuất của mặt người *  (16/06/2003)
Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử?  (15/06/2003)
Trung thu  (13/06/2003)
Bài thơ lục bát của Nguyễn Bính còn ít người biết  (13/06/2003)
"Gần mũi xa mồm"  (12/06/2003)
Mai theo em về Hầm Hô  (12/06/2003)
Những vòng xe tình yêu  (11/06/2003)