Nhân 8 năm ngày mất Văn Cao (12-7-1995 – 12-07-2003):
Một chiều thu với tác giả "Tiến quân ca"
17:6', 11/7/ 2003 (GMT+7)

Tôi cùng họa sĩ Viết Hiền đến thăm Văn Cao vào một chiều thu tháng Tám trên căn gác nhỏ, 108 Yết Kiêu, Hà Nội. Người bạn họa sĩ mà tôi mới quen biết, anh Hòa, ở trường Đại học Mỹ thuật gần đấy, là cháu của nhạc sĩ, đã dẫn đường cho tôi. Thật ra nhà Văn Cao không phải khó tìm, và khi bước vào nhà, tôi vẫn cứ ngỡ ngàng tự hỏi: đây là nhà của một nhạc sĩ nổi tiếng-tác giả của Quốc ca hay sao? Vì căn nhà không che giấu đi cái vẻ tuềnh toàng, giản dị của nó.

Tiếp chúng tôi là bác Băng, vợ nhạc sĩ, một con người cởi mở, vui tính. Bấy giờ đang trưa nắng, Văn Cao còn đang nghỉ trưa trên chiếc đi-văng bên cạnh bàn. Chúng tôi chào hỏi và nói chuyện làm ông tỉnh giấc. Nghe giới thiệu có người trong Bình Định ra thăm, bác Văn Cao trở mình ngồi dậy một cách khó khăn, nhưng không cho ai đỡ ông cả. Đấy là một ông già đầu tóc bạc phơ, lõa xõa như bờm sư tử. Và ông ho sù sụ. Chỉ đến sau đó, trong câu chuyện với nhau, tôi mới cảm nhận ra một Văn Cao như đã từng nghe biết: hoạt bát, tinh anh, đầy nghị lực.

Câu chuyện của chúng tôi lúc đầu chỉ là hỏi thăm sức khỏe của những người quen biết, và sức khỏe của ông. Được biết, vì sức khỏe mà Văn Cao đã mấy lần không đi Pháp được theo lời mời của họ. Tác giả Quốc ca đang được hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước về chăm sóc sức khỏe, nhưng hiện giờ, chủ yếu vẫn do các y, bác sĩ mến mộ người nghệ sĩ tài năng Văn Cao đã tự nguyện chăm sóc ông mà thôi.

Tưởng cũng cần nói thêm là, tôi đến thăm Văn Cao vào lúc mà trước đó một tuần, có báo đã đăng bài "Tiến quân ca- hai tác giả" phủ nhận Văn Cao là tác giả duy nhất của Tiến quân ca. Văn Cao rất buồn, bảo đó là sự xúc phạm danh dự của riêng ông và đã mập mờ, bôi nhọ lịch sử ra đời của bài hát - một bài hát gắn với lịch sử dân tộc. Việc Tiến quân ca được Bác Hồ chọn làm Quốc ca và cũng được Quốc hội khóa đầu tiên chính thức công nhận, và ghi trong Hiến pháp 1946 đã xác định một tác giả duy nhất của nó là Văn Cao. Ông bảo, ông đã có đơn gởi lên Quốc hội để nhờ các cơ quan hữu trách làm sáng tỏ và trả lời trước công luận về bản quyền của Tiến quân ca.

Khi mà mọi điều đã lắng xuống, công luận đã rõ ai là tác giả duy nhất của Quốc ca, tôi có dịp thăm ông một lần nữa. Lúc này, ông rất vui. Và chiếc đàn dương cầm đã nhiều năm đóng bụi vì chủ nhân của nó không buồn đụng đến, bây giờ lại ngân nga những bản nhạc trầm hùng dưới ngón đàn của ông.

Bao ca khúc cách mạng và yêu nước, bao ca khúc trữ tình của Văn Cao đã đi vào lòng người. Con người đầy sức sáng tạo mãnh liệt và thiết tha với cuộc sống ấy vốn rất am hiểu sâu sắc về âm nhạc cổ truyền dân tộc. Đó là hồn dân tộc kết tinh thành dòng suối nhạc tuyệt vời trong những ca khúc của ông. Tôi nhìn quanh căn phòng. Trên tường treo hai bức tranh: một là chân dung người vợ yêu quí của ông thời son trẻ. Một nửa là bức tranh miêu tả bốn người đang leo cột, người trên đạp kẻ dưới giống tranh dân gian.

Tôi chợt hỏi ông: "Thưa bác, cháu biết bác là nhạc sĩ nổi tiếng, nhưng bác còn làm thơ và yêu thích hội họa nữa. Vậy thì trong ba loại hình nghệ thuật ấy, bác nghiêng tâm hồn mình về phía nào ạ?"

- Hội họa - Ông trả lời ngay - Hội họa là khởi nguyên của tôi và từ đó tôi đến với thi ca và nhạc… Lúc này, cuối đời, bác muốn quay lại về với hội họa. Cháu nhìn xem, những khung, giá vẽ đằng kia là để chuẩn bị cho những tác phẩm hội họa mới. Bác muốn làm một cái gì đó thật riêng cho mình lúc cuối đời, cháu ạ!

Văn Cao đã đưa ra bảng phân loại những nghệ thuật mà mình đã trải qua: hội họa-thơ ca-âm nhạc. Nếu không phải chính lời ông nói thì khó mà tin được thứ tự phân hạng như thế. Ông đến với âm nhạc tuy muộn nhưng sớm chia tay với nó, để trở về với hội họa và thơ ca. Cái nguyên lí mỹ học phương Đông đã trở thành triết thuyết cụ thể trong thực tiễn sáng tạo của ông: "Thi trong hữu họa". Những dòng thơ của ông như là những hình ảnh, những sắc màu của hội họa hóa thân vào vậy.

Cách đây đã lâu, năm 1985, Văn Cao cùng một số văn nghệ sĩ khác làm một cuộc hành hương vào phương Nam, đến thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường, hai ông bà Văn Cao cùng ghé lại Quy Nhơn- Bình Định. Còn nhớ, lúc ấy tôi còn là sinh viên Văn khoa của trường Đại học sư phạm Quy Nhơn, nghe Văn Cao tới trường nói chuyện, chúng tôi háo hức lắm. Nhưng dịp may đã lỡ. Hôm ấy, ông mệt không thể vào trường được.

Chuyến đi Quy Nhơn- Bình Định ấy hóa ra để lại cho Văn Cao nhiều ấn tượng tốt đẹp, cùng những kỷ niệm khó quên.

Ông nói, lần ấy ông đã hoàn thành 3 bài thơ về Quy Nhơn: Quy Nhơn I, Quy Nhơn II, Quy Nhơn III.  Nhà thơ Thanh Thảo phải đọc thay ông 3 bài thơ này tại trường tôi. Đây là 3 bài thơ ông tâm đắc nhất trong cuộc đời làm thơ của mình, về sau ông chọn 3 bài thơ này in trong tập thơ "Lá". Ông kể: Sau đó, trên đường vào Nam, trong một cuộc gặp gỡ nhỏ, người ta yêu cầu ông đọc thơ, ông đã đọc luôn ba bài thơ ấy:

Một nửa hình con trai

                           Ngày

Lấp lánh sắc cầu vồng

Một nửa mình trăng

                           Đêm

Nằm nghiêng trên cát biển

                           (Quy Nhơn I)

Đọc xong, nhà thơ Thu Bồn thấy hay quá, nói đùa: Với ba bài thơ này, Văn Cao xứng đáng là tác giả của một "Tiến quân ca thứ hai" đấy!

Tôi hỏi ông: "Thưa bác, tại sao tập thơ của bác lại đặt tên là "Lá". Vậy "lá" có liên quan gì đến điều bác thích?

- Lá là tất cả cháu ạ! Tất cả như một chiếc lá. Lá có thể diễn tả được dòng nhựa sống từ trong nguồn mạch. Lá có thể là màu xanh, có thể là chiếc lá vàng rơi… Đời người như chiếc lá. Bác có thể diễn tả lá bằng hội họa với vài ba nét bút, hoặc hơn nữa… Lá cũng đã hóa thân vào âm nhạc của bác nữa đấy!

Hóa ra là thế. Tôi liên tưởng đến "Lá cỏ" của nhà thơ Uýt Man, đến "Chiếc lá cuối cùng" của O. Hen-ry, đến Hoàng Việt với "Lá đỏ" rồi "Cứ ngỡ là lá ngọt" của Lâm Thị Mỹ Dạ… Và như thấy cái diệu kỳ trong chiếc lá như ông nói, tôi đem suy nghĩ đó nói lại với Văn Cao, ông gật đầu: Chính là thế đấy.

Rồi bất chợt tôi hỏi: "Thế bác có còn làm thơ không ạ?"

- Còn. Bác còn đủ thơ cho những tập tiếp theo. Và nếu phải đặt tên cho tập thơ bác sẽ đặt tiếp: "Lá II", "Lá III"… Chỉ có điều chưa đủ điều kiện in ấn, xuất bản mà thôi. "Thời gian qua kẽ tay làm khô những chiếc lá"…

Nắng đã xiên khoai. Văn Cao ngồi tiếp chuyện như thế đã lâu rồi. Trông ông có vẻ mệt. Tôi ngỏ ý xin được cùng ông chụp một bức ảnh làm kỷ niệm, ông vui vẻ quay sang vợ : "Mấy khi các anh ở Bình Định ra thăm, bà nhỉ!"

Sau khi chụp ảnh, tôi đánh bạo hỏi ông một câu cuối cùng:

- Cháu biết bác có ấn tượng tốt về Bình Định. Nếu nói một câu, một vài điều gì đó về Bình Định, bác sẽ nói gì ạ?

Văn Cao cười hiền hậu:

- Anh "địa phương chủ nghĩa" gớm nhỉ! Về Bình Định ư? Trước hết là phong trào Tây Sơn của Nguyễn  Huệ, về võ Bình Định. Bác thì bác sợ con gái Bình Định lắm. Câu ca gì nhỉ? À, cái câu "con gái Bình Định cầm roi"… rượt chồng ấy mà! (ông quay sang bác gái cười khà, rung cả hàm râu). Ừ, còn phải nói thích nhất nữa là… rượu Bàu Đá. Ngon tuyệt! Lần sau cháu ra, kiếm cho bác một hũ nhé.

Tôi đã hứa (và lần sau tôi mang rượu Bàu Đá ra, có cả quà và rượu Bàu Đá của Từ Quốc Hoài và Trần Hinh gởi nữa). Còn lúc này, tôi để ý, trong lúc chuyện trò, bác gái đã tiếp cho Văn Cao mấy cốc rượu trắng… Ai hiểu tác giả  Thiên Thai, Suối Mơ  và cả Tiến quân ca bằng bác gái Văn Cao nhỉ ?

. Trần Xuân Toàn 

 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC >>
Bài thơ "Lá rụng"  (10/07/2003)
Núi có duyên thật  (10/07/2003)
Mảnh hồn tôi với Quy Nhơn  (09/07/2003)
Tản Đà làm ca dao  (08/07/2003)
"Cầm chân em, cầm chân hoa" của Yến Lan  (06/07/2003)
Và ly nước cũng khóc  (04/07/2003)
Nhà thơ Thu Bồn trong vòng tay bạn bè  (03/07/2003)
Hình tượng Chàng Lía qua một truyện ngắn  (02/07/2003)
Bến đò xưa hoang vắng  (01/07/2003)
Cảm nhận về những bài thơ cuối đời của nhà thơ Yến Lan  (30/06/2003)
Tự tình mùa hạ  (29/06/2003)
Bài ca tình nguyện  (29/06/2003)
Trần Quang Diệu  (27/06/2003)
Hoa đỏ ngày xưa...  (26/06/2003)
Canh lá dang mùa nắng  (26/06/2003)