Nhà nghiên cứu Khrapchencô đã từng khẳng định:
"Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó".
Thực tế cho thấy, giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong việc xây dựng và triển khai tư tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Ở một phương diện khác, giọng điệu chịu áp lực của thể loại. Chính điểm mấu chốt có tính đặc trưng này khiến giọng điệu trữ tình khác hẳn giọng điệu văn xuôi tự sự.
Thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng cả chủ thể và khách thể gần gũi nhau đến mức "trong đa số trường hợp xem như hòa lẫn cùng nhau".
Trong các bài thơ trữ tình nhập vai, nhân vật có mối quan tâm riêng, có cảnh ngộ và đời sống riêng. Việc đẩy nhân vật trữ tình ra khỏi tầm kiểm soát thông thường của nhà thơ đã biến nhân vật có khi trở thành đối tượng nhận thức của chính tác giả. Dù vậy, nhìn vào mối quan hệ ngầm ẩn bên trong, người đọc có thể nhận ra nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. Hai nhân tố này khiến nhà thơ trở thành "một sự thống nhất trong hai con người". Chính trên cái nền thống nhất có tính bản chất này mà thơ trữ tình trực tiếp bộc lộ giọng điệu tác giả, được chảy trong một trường nhìn, một kênh giọng chỉ đạo. Vì thế, giọng điệu trữ tình là sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc thoại và sự lựa chọn thể loại phù hợp.
Nhìn chung, giọng điệu thơ trữ tình chủ yếu được bộc lộ qua những đặc điểm chính:
Một là, do thể hiện trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập trường của nghệ sĩ mà giọng điệu thơ mang tính chủ quan.
Hai là, nếu văn xuôi có ý thức khám phá đời sống ở tầng đáy của nó, phân tích một cách minh bạch, kỹ lưỡng các hiện tượng thì thơ lại là những mảng tâm trạng điển hình, những nhát cắt của dòng cảm xúc mãnh liệt cho nên giọng điệu tác phẩm thường trùng khít, tương hợp với ý đồ tác giả.
Ba là, mặc dù là phạm trù thuộc về nội dung nhưng giọng điệu bao giờ cũng chi phối đến các phương diện hình thức, được bộc lộ qua những tín hiệu có tính hình thức. Trong thực tiễn nghệ thuật, giọng điệu không hiện ra chắp vá, rời rạc mà được toát ra từ những mao mạch nhỏ bé, li ti của tác phẩm. Việc biểu hiện nó còn nhờ cậy vào cách xây dựng nhịp điệu và khả năng điều phối các kỹ thuật sử dụng hình ảnh, gieo vần, dùng từ. .. tạo thành mối quan hệ bên trong, góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác phẩm.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại qua từng chặng đường thơ, chúng ta thấy rằng giọng điệu trong thơ cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn nhiều. Mạch đập cuộc sống, xúc cảm nhà thơ, cấu tứ, thể loại và cuối cùng là giọng điệu, đó là kết quả của quá trình khởi nguồn, bắt nhịp và thể hiện. Quá trình ấy ngày dần hướng đến "sự đồng thuận", "tương ứng". Vì vậy mà nhịp thở của cuộc sống với nhiều cung bậc, sắc thái... vốn vô cùng khác nhau có cơ hội được "hiện hữu" trong thơ. Cũng chính vì vậy mà sức hấp dẫn của thơ vẫn mãi "trinh nguyên", vẫn mãi "không cùng".
Ngày nay, bên cạnh các thể thơ truyền thống, thơ tự do đặc biệt nở rộ, giọng điệu trong thơ càng đa dạng hơn, gần âm hưởng đời thường hơn.
Suy cho cùng, giọng điệu trong thơ trữ tình là sự "tương hợp nội tại, giữa ý thức có tính độc lập và sự lựa chọn thể loại phù hợp". Vì vậy, cũng như sự phát triển của thơ, giọng điệu trong thơ là "tự thân" và "tự nhiên". Chúng ta hy vọng hồn dân tộc, cội nguồn gốc rễ sâu xa sẽ thổi bùng những mạch ngầm sáng tạo mới để người đọc chúng ta có được những vần thơ rất người, rất đời và điều quan trọng hơn hết là có ích cho cuộc đời này.
. Thi An |