. Truyện ngắn của Khuê Việt Trường
Tháng 4-1975 đối với tôi chỉ là một giấc mơ. Bởi khi đó tôi chỉ mới vừa 10 tuổi. Tôi không mang trong lòng mình một mối tình nào để nhớ thương khi đặt chân đến xứ người. Tôi chỉ biết rằng ba tôi đã đưa cả gia dình lên tàu trong đêm lìa bỏ quê hương một cách vội vã, khi đó thành phố trong đêm có cả ngàn trái hỏa châu cứ liên tục bung sáng trên bầu trời. Tôi hồn nhiên đùa giỡn với những người bạn cùng lứa trên chiếc tàu chen kín người giữa đại dương mênh mông mà không biết rằng mình đang bắt đầu xa quê hương. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu rằng đó là những chuyến vượt biên đầy máu và nước mắt. Chuyến đi của gia đình tôi gặp nhiều may mắn, được Hạm đội số 7 vớt giữa biển khơi trong khi con tàu mỏng manh như không thể chống chọi với những con sóng biển lớn, lương thực mang theo cạn dần có thể sẽ bị chìm giữa biển. Cả gia đình tôi và nhiều gia đình khác được đưa đến định cư tại Cali sau một thời gian ở trại tị nạn. Tất cả những chuyện đó giống như cuốn phim mờ nhạt trong trí óc tôi, bởi ở tuổi lên 10 tôi chưa ý thức được rằng tôi không có quyền chọn lựa đi đâu và về đâu - chính ba mẹ tôi đã quyết định số phận cho tôi.
Lớn lên, tôi sống trong một cộng đồng người Việt tha phương. Tôi hiểu được rằng tôi còn có một quê hương cần phải trở về. Tôi sống trôi theo cuộc sống ở xứ người. Tôi hòa nhập nhanh chóng cuộc sống mới, trong khi ba mẹ tôi làm đủ mọi nghề để nuôi ba anh em tôi. Rồi tôi đậu đại học, tấm bằng kỹ sư đủ cho tôi chen cùng với những người bản xứ để kiếm sống. Những con đường xe cộ chạy theo một tốc độ quy định, những công viên đầy hoa cỏ và những con chim bồ câu bay tung là xứ người. Nhưng những buổi họp mặt bạn bè cùng những chuyến đi chuyến về của mọi người khiến tôi mang trong lòng mình nỗi nao nức tìm gặp. Có điều khác là người ta trở về quê hương để thăm bà con ruột thịt, vì bất cứ ai cũng có người thân tại quê nhà. Còn gia đình tôi lại giống như những con người không có nguồn cội. Ba tôi mồ côi cha mẹ, mẹ tôi cũng là con một trong gia đình, sau ngày giải phóng vài năm thì ông bà ngoại tôi đã qua đời. Tôi chẳng có cô cậu, chú bác. Cho nên tôi không có người thân để tìm về.
Ngày xưa, ba tôi là một sĩ quan trong chế độ cũ. Ông nôn nóng đưa cả gia đình vượt biên vì ông sợ sau cuộc chiến cả gia đình sẽ sống không yên ổn. Khi đó ông còn trẻ, còn nhiều khát vọng và có một cái nhìn khác. Nhưng rồi khi đầu tóc ông đã bạc phơ, khi đã thấm thía nỗi đau của con chim không có tổ, nỗi đau của con người không nguồn cội, ông nói với tôi: "Con phải về Việt Nam con ạ. Dẫu chỉ để đi trên đường phố hay ngồi uống một ly cà phê ở quán góc đường nào đó. Ba sẽ đưa con về.". Nhưng lời hứa của ba không thực hiện được. Ông bị bệnh nặng. Một khối u ác tính nằm im trong lồng ngực ông từ lâu, nhưng đến khi phát hiện nó thì không còn phương cứu chữa. Trước khi nhắm mắt lìa đời, ông trối với mẹ và tôi: "Ngày tôi chết, tất cả tiền phúng điếu bà và con nhớ giữ lại, nếu có về Việt Nam thì hãy dùng nó vào việc từ thiện. Bà con mình còn nhiều người cần được giúp đỡ." Ông lặng lẽ qua đời vào một chiều thu. Đường phố như nhuộm đầy lá vàng để tiễn đưa ông sau hơn 20 năm tha phương cầu thực mà vẫn chưa có một chuyến về. Khi đó, tôi mới hiểu thế nào là một người không có quê hương.
Lạ kỳ cho tôi là tôi mang trong lòng một nỗi nôn nao thật sự khi chuyến bay hạ xuống phi trường. Chẳng có một người nào đón tôi trong dòng người chen lấn bên hành lang sân bay với những nụ cười, những cái vẫy tay và cả những bó hoa tươi thắm. Bởi đơn giản vì tôi không có một người thân nào ở quê hương.
Cô gái phụ trách lễ tân ở khách sạn ngạc nhiên khi thấy biết tôi về Việt Nam lần đầu: "Em thấy ai cũng có bà con đưa về nhà, còn anh sao lại ở đây?". Tôi cười buồn: "Thì ở đây đã là nhà". Ừ, nghĩ cho cùng thì tôi đang ở trong lòng quê hương của mình rồi đó, có điều khác là tôi không có lấy một người thân thích để thăm viếng, tôi chỉ có một mình. Tôi về vì nao nức muốn tìm lại nguồn cội của mình sau 29 năm xa lìa. Tôi về một phần vì lời hứa với ba tôi trước khi ông nhắm mắt lìa đời: Đem số tiền phúng điếu và một số tiền do ông dành dụm riêng trong thời ông còn sống về Việt Nam để tặng cho quỹ mổ mắt người nghèo. Đơn giản là với cuộc sống con người, thiếu đi ánh sáng là mất đi biết bao nhiêu hy vọng. Nhưng những người nghèo sẽ không nhìn thấy ánh sáng nếu không có một ai đó giúp đỡ, vì cả cuộc đời lam lũ họ chẳng có lấy một số tiền nào dành dụm.
***
Cô gái hướng dẫn tôi tại Trung tâm bảo trợ bệnh nhân nghèo nhỏ xíu như một cành liễu. Gương mặt của cô hồng hào và hồn nhiên. Cô tiếp tôi ngay tại bàn làm việc: "Xin giới thiệu với anh em tên là Quảng Nam, em có thể giúp gì được anh?". Mãi về sau, khi quen thân nhau, tôi mới biết cái tên Quảng Nam của em là do ba em đặt vì ông là người Quảng Nam vào thành phố sinh sống đã lâu, đặt tên con để nhớ về nơi quê cha. Quảng Nam tận tình:"Tụi em sẽ có một buổi lễ nhỏ nhận số tiền anh chuyển giao. Tuần sau tụi em cũng có một chuyến đi dài ngày với các bác sĩ mổ mắt cho bệnh nhân nghèo. Nếu rảnh thì anh đi cùng". Ngắm nhìn chiếc đầu hớt trọc của tôi, Quảng Nam phá lên cười: "Nhưng mấy ông Việt Kiều chắc bận bịu lắm. Đi du lịch nè, đi ăn chơi nè. Mỗi năm về nước một lần mà. Vả lại, nhìn đầu tóc của anh em thấy hung dữ làm sao đó." Tôi giải thích: "Không phải mình muốn làm khác người đâu. Nhưng mình muốn cho người đối diện biết rằng con người ta cần nhất là tấm lòng, chứ không phải là vóc dáng bên ngoài." Quảng Nam cười: "Ờ há, nhưng sao anh bỏ vợ về nước một mình?" Tôi mím môi: "Chưa có vợ." Em nhíu mày: "Hình như ông Việt kiều nào về nước cũng nói rằng chưa có vợ?" Mới gặp nhau lần đầu, tôi không thể giải thích với em rằng tại sao tôi chưa có vợ. Bởi tôi đâu còn trẻ nữa, chỉ một năm nữa thôi thì tôi đã bước sang tuổi 40 rồi. Người ta nói người đàn ông 40 tuổi chưa vợ là một người đàn ông khó tính. Tôi không hiểu tôi có khó tính không? Còn tôi thì dẫu lìa xa quê hương ròng rã 29 năm, nhưng lạ kỳ cho tôi là trong những cô gái ở Cali, tôi cảm thấy như thiếu một thứ gì đó tôi đang đi tìm. Tôi không kén chọn nhan sắc, tôi lãng mạn dẫu cuộc sống của tôi vô cùng vội vã: "Hôn nhân cần phải có tình yêu." Bởi tôi chưa có tình yêu nên tôi vẫn đứng bên ngoài những căn nhà ấm cúng. Quảng Nam nói tiếp: "Nếu chưa có vợ thì chắc về nước kiếm vợ". Tôi cười: "Tại sao phải kiếm vợ."
Thế rồi không biết làm gì cho hết những ngày ở Việt Nam, tôi theo đoàn cứu trợ bệnh nhân nghèo tham gia chương trình mổ mắt. Quảng Nam chở tôi trên chiếc xe gắn máy của em. Tôi không theo chiếc ô tô của đoàn, bởi vì tôi thích ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Quảng Nam nói: "Bụi vừa thôi nhé. Vả lại đến vùng sâu vùng xa nước không đun sôi, rau không rửa sạch - anh coi chừng đau bụng." Tôi ngạc nhiên: "Tại sao đau bụng.?" "Tại vì mấy người ở bên đó về chê ở trong nước kém vệ sinh." Tôi buột miệng: "Thật à?" Lạ cho tôi chưa là tôi có cảm giác như mình đang thật sự sống với mình khi theo Quảng Nam đi đến miền quê thăm người nghèo. Tôi cảm thấy như gió thổi lộng kia đang đưa vào lồng ngực tôi mùi cỏ bao năm rồi giữ lại, đợi tôi về mới tỏa ra...
***
Sau mấy ngày đi mổ mắt cho bệnh nhân, Quảng Nam nói: "Anh tới nhà em ở vài ngày nếu anh thích. Không phải vì anh là Việt kiều mà em mời đâu. Tại vì em thấy tội nghiệp anh quá. Người gì mà không có một ngôi nhà để trở về." Quả thật tôi chẳng có một ngôi nhà nào để trở về. Tôi thèm thật sự một bữa cơm gia đình, tôi thèm nghe tiếng cửa mở kẽo kẹt, thèm cả tiếng bước chân đi trên bậc thềm. Buổi trưa ngồi ăn cơm trong trạm xá xã, Quảng Nam cười: "Em ghét Việt kiều lắm. Nhưng anh là ngoại lệ. Nhiều người ở bên xứ người làm đủ thứ nghề, về nước có chút tiền bày đặt kênh kênh. Còn anh thì khác." Tôi hỏi: "Khác gì đâu mà khác?". "Khác chớ. Khác vì anh chịu khó đi cứu trợ, vì anh ăn thứ gì cũng… không sợ đau bụng." Tôi bật cười với nhận xét của Quảng Nam.
Mấy ngày cuối cùng ở Việt Nam tôi thật sự vui, vui vì theo ba em đi tát đìa, theo ra vườn thăm cây trái. Nhà em nằm ở ngoại ô thành phố. Em mơ sau này trở thành bác sĩ, nhưng mộng chỉ nửa đường là trở thành y tá. Em lý luận: "Y tá cũng làm ngành y. cũng là cứu người. Thế là đủ." Hàng ngày Quảng Nam đi làm ở bệnh viện, chỉ trừ ngày chủ nhật ở nhà. Ba em nói: "Con nhỏ kén chọn lắm, nó nói chỉ khi nào gặp người đàn ông nó thật sự yêu thương mới lấy làm chồng." Trong căn nhà ngoại ô, mỗi chiều về tôi lại có thói quen ra đầu con đường ngóng đợi em đi làm về. Xúm xít lặt rau phụ em nấu ăn. Căn nhà hai người thêm tôi nữa như vui hơn - tôi vui, em vui và ba em vui.
***
Tôi rời khỏi Việt Nam đã có người đưa tiễn. Đó là anh chị trong HộI bảo trợ bệnh nhân nghèo thành phố, và dĩ nhiên có cả Quảng Nam. Trong khói sương của buổi chiều quê hương, lời Quảng Nam vọng lại: "Phải chi có nhiều tiền, mình giúp mổ mắt hết cho người nghèo anh há." Và nữa, tôi cảm thấy tôi sẽ rất nhớ Quảng Nam, cho nên tôi sẽ trở về. Tôi nói với em: "Anh sẽ kiếm tiền về để cho nhiều người được mổ mắt." Còn câu này tôi chưa dám nói: "Và bởi vì em cũng chính là quê hương của anh."
Tôi cũng chỉ là một ngọn sóng tìm về bến bãi trong đại dương mênh mông. Quảng Nam chính là người đưa tôi về bến bãi. Tôi đã viết sẵn một lá thư cho em và sẽ đưa cho em khi tôi vào phòng đợi. Tôi mơ ước trong chuyến về kế tiếp, Quảng Nam sẽ ra sân bay đón. Tôi và em lại cùng đi mổ mắt cho những người nghèo.
. K.V.T
(Nha Trang) |