Cuối năm 1910, Bác Hồ (khi đó là Nguyễn Tất Thành) rời Trường Dục Thanh ở Phan Thiết vào Sài Gòn tiếp tục cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Ngày đó phương tiện đi lại còn rất thô sơ. Xe lửa mới chỉ chạy loanh quanh Sài Gòn từ Chợ Cũ đi Tân Định và Chợ Cũ đi Chợ Lớn... Cả Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có chừng 5- 7 chiếc ô tô, vì vậy, 200 cây số từ Phan Thiết vào Sài Gòn, Bác vẫn phải đi bằng thuyền buồm.
|
Tàu Admiral Latouche Tréville, nơi Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp khi rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước tháng 6-1911.
|
PHẦN 1
Anh chị em ở Hội Liên Thành cho biết, ngày trước có nghe các cụ tiền bối nói từ Phan Thiết, Bác theo ghe bầu (loại thuyền lớn) chở nước mắm của Công ty Liên Thành - chuyến đó đến Vũng Tàu bị sóng to gió lớn, ghe không vào cửa được phải đậu ở Gành Rái. Bác đã lên bờ đi qua Bà Rịa lên Long Thành để đến Sài Gòn.
1.
Bác Hồ tới Sài Gòn. Lúc đó, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định còn tách riêng bởi nhiều ruộng, kinh rạch, ao hồ và đầm lầy. Tuy dân cư thưa thớt, chợ Bến Thành chưa xây xong, chợ Sài Gòn còn rất nhỏ, nhóm họp trên nền Tổng Ngân khố ở đường Nguyễn Huệ bây giờ, nhưng Sài Gòn đã có nước máy, có đèn điện. Nhà ga xe lửa nằm giữa đường Hàm Nghi. Trên các phố chủ yếu là xe ngựa gọi là “xe kiếng”, xe thổ mộ, xe song mã và xe kéo tay... Hải cảng Sài Gòn cho hạm thuyền 3 buồm hạng lớn và tàu thủy chạy bằng hơi nước mới xây dựng.
Những năm đó, Sài Gòn là thành phố Viễn Đông tráng lệ của thực dân Pháp. Với Bác, đây vẫn là thành phố của bất công và nghèo đói. Về sau, trong những bài báo, diễn văn viết, nói ở nước ngoài, Người đã đơn cử rất nhiều trường hợp về cái gọi là khai hóa, là văn minh, là công lý của bọn thực dân ở thành phố này...
Đến Sài Gòn, đầu tiên Bác tìm đến nhà người anh em bạn dì của cụ Nghè Mô là ông Lê Văn Đạt tại xóm cầu Rạch Bần, nay là số nhà 185/1 đường Cô Bắc, khi ấy là vựa chiếu. Một thời gian sau, cụ Nghè Mô và ông Hồ Tá Bang đưa Bác đến ở nhà 1-2-3 đường Tecxa, Chợ Lớn, hồi ấy là trụ sở của Thương quán Liên Thành phân cuộc.
Những người kế tục của Công ty Liên Thành cho biết, ngày trước 3 gian nhà này chỉ là nhà một tầng, lợp ngói âm dương. Bác ở đây cho đến ngày xuống tàu. Sau ngày miền Nam giải phóng (tháng 4-1975), nơi đây được đổi thành nhà số 3 và 5 đường Châu Văn Liêm (Chợ Lớn), trong đó nhà số 5 được giữ làm di tích nơi Bác Hồ rời Sài Gòn xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước (được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử ngày 16-11-1988).
Trong thời gian ở đây, Người thường đi thăm cụ thân sinh đang làm nghề bốc thuốc ở cầu Ông Lãnh. Các cụ ở Liên Thành kể lại rằng, tết năm đó thầy Thành nói: “Tôi về ăn tết với cha”. Thành phố Sài Gòn đã có một mùa xuân in đậm trong Bác. Mùa xuân đó Sài Gòn chưa có bình minh. Trong đêm đen nô lệ, chắc chắn Bác và cụ Phó bảng - thân sinh của Bác - cũng chỉ đón tết với lòng xót xa thương dân, thương nước.
2.
Đầu tháng 3, Bác xin vào học ở trường dạy nghề mở gần Chợ Cũ - trường này đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Có phải Bác muốn có một cái nghề để ra đi không?
Đồng chí Hà Huy Giáp kể lại, có lần Bác nói: “Bác đâu có ý định học thợ, nhưng trong lúc lang thang để tìm cách sang phương Tây, mà có nơi cho mình học, có cái ăn là mình vô thôi”.
Bác học tại trường được 3 tháng. Trong ngót 100 ngày đó, Bác đã dành nhiều thời gian quan sát Sài Gòn. Cái gì đối với Bác cũng mới lạ, từ nhà cửa đến đèn điện, máy nước, xe cộ, chiếu bóng... nhưng điều lạ hơn cả là trong bối cảnh như vậy sao dân mình vẫn khổ sở và bị khinh rẻ. Phải làm gì để cứu dân, cứu nước? Trong một lần đến thăm cha, Bác được cụ Phó bảng dạy: “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”...
Suy nghĩ đúc kết những bước đi của các vị tiền bối, Bác khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp… Các cụ đã giúp thêm cho Bác quyết tâm, ý chí và nghị lực. Nhưng Bác “không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”.
Bác phân tích: Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, Bác nhận thấy điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến… (1)
Người thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Đồng chí Hà Huy Giáp kể rằng, có lần Bác nói: “Cách mạng là con chim đại bàng có 2 cánh, một cánh vỗ ở các nước thuộc địa, một cánh vỗ ở các nước chính quốc. Có 2 cánh vỗ thì đại bàng mới bay được”. Trong đêm đen nô lệ của đất nước, Bác đã là cánh chim đại bàng - “cánh chim không mỏi”.
Khi quyết tâm ra đi, Bác rủ một người bạn:
- Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thực ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?
Người bạn ngạc nhiên sửng sốt hỏi:
- Nhưng... lấy đâu ra tiền mà đi?
Bác giơ 2 bàn tay lên cả quyết:
- Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc, ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?
Trước lòng quyết tâm của Bác, anh bạn đã đồng ý, nhưng sau đó anh không đủ can đảm thực hiện lời hứa. (2)
3.
Tháng 4-1862, Công ty Vận tải đường biển Hoàng gia Pháp Messageries Impériales (MI) bắt đầu hoạt động tuyến đường từ Pháp đi Sài Gòn - Hồng Công... Trụ sở của công ty ở Sài Gòn là ngôi nhà 3 tầng nằm ở hữu ngạn vàm rạch Bến Nghé (3), trên nóc có 2 con rồng quay đầu vào chầu mặt trăng theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Sau này (khoảng năm 1920), khi hãng MI đổi thành hãng Messageries Maritimes, mặt trăng được thay bằng phù hiệu của hãng có hình đầu ngựa, mỏ neo, vương miện, hai bên có 2 con rồng chầu, nhưng lại đặt đầu quay ra hai bên, bốn góc có 4 con cá hóa rồng chầu ra bốn hướng theo cung cách đình chùa Việt Nam. Một nhà báo Pháp viết rằng, đó là cách điệu của người Pháp để nói các con tàu ra đi từ xứ Á châu này. Coi mặt đặt tên, nhân dân ta gọi đó là Nhà Rồng. Tên gọi bến Nhà Rồng cũng xuất phát từ đó.
Bên này vàm rạch Bến Nghé có cột cờ Thủ Ngữ để làm mốc cho tàu buôn ra vào. Cột cờ dựng ở trước Sở thuế của cảng Sài Gòn (khi đó còn gọi là Sở Thủ ngự như tên gọi dưới thời Vua Tự Đức). Cũng như vậy, ngày 15-8-1862, tại Vũng Tàu, khánh thành ngọn hải đăng dẫn đường cho tàu vào cửa Cần Giờ.
Sau MI, có thêm hãng tàu Chargeurs Resunis (mới thành lập, chạy đường Pháp và Đông Dương từ năm 1901), chạy trên đường này. Hãng có đội tàu 7 chiếc. 6 tàu lớn chia nhau chạy các tuyến giữa hải cảng Pháp và Đông Dương. Chiếc Chợ Lớn nhỏ hơn, chạy bổ túc quanh năm. Từ Đông Dương đi Pháp có 2 nơi khởi hành: từ Hải Phòng vào ngày 27 mỗi tháng, từ Sài Gòn vào ngày 5 mỗi tháng. Hãng này có huy hiệu 5 ngôi sao nên người Việt Nam thường gọi là hãng Năm Sao. Tàu Amiral Latouche Tréville là một trong 7 chiếc tàu của hãng Năm Sao, do xưởng đóng tàu La Loire sản xuất ở vùng Saint Nazaire, hạ thủy ngày 21-3-1903, đăng ký tại cảng Le Havre năm 1904. Đây là một trong những tàu cỡ lớn đầu thế kỷ 20, vừa chở người vừa chở hàng. Hãng tàu Năm Sao có bến trong thương cảng Sài Gòn - ngày đó dài chừng 600m, nối tiếp với quân cảng kể từ công trường Mê Linh tới cầu Khánh Hội bên này rạch Bến Nghé, khi ấy gọi là Quai Francis Garnier, nay cũng là một phần đường Tôn Đức Thắng.
Thương cảng Sài Gòn năm 1911 khá tấp nập, trang bị đầy đủ và ở vào đầu mối giao thông rất thuận lợi, chỉ dài 600m mà có nhiều đại lộ châu đầu vô bến. Đó là các đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng), Catinat (nay là đường Đồng Khởi), Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), Krantz và Duperré (nay là đường Hàm Nghi). Nhà ga đường sắt đi Mỹ Tho và Phan Thiết đặt ở đầu đường Hàm Nghi tiếp cận với thương cảng. Nhà ga tàu hơi (tramway) cũng ở ngay đầu đường Nguyễn Huệ. Tàu hơi chạy dọc suốt thương cảng và quân cảng, một phía đi Gia Định rồi Hóc Môn, phía kia đi Chợ Lớn. Chợ Bến Thành (cũ) nằm gần đầu đường Nguyễn Huệ, nay là kho bạc. Qua thương cảng, khối lượng chuyên chở hành khách và hàng hóa của cảng ngày càng gia tăng (riêng lúa gạo, năm 1861 xuất khẩu 80.000 tấn, năm 1891 xuất khẩu 440.000 tấn, năm 1911 xuất khẩu trên 1,1 triệu tấn).
Thương cảng Sài Gòn khi ấy có 5 cầu tàu: 3 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Đồng Khởi dành cho các hãng chuyên chở đường sông, 1 cầu tàu lớn ở đầu đường Nguyễn Huệ dành cho các tàu viễn dương và 1 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Hàm Nghi dành cho hãng tàu người Hoa. Brébion đã mô tả Thương cảng Sài Gòn hồi 1911: “Trên bến Francis Garnier (nay là bến Bạch Đằng), phía bờ sông có nhiều loại cầu tàu chiếm chỗ. Một trong số cầu tàu lớn nhất là nơi cập bến các tàu lớn thuộc hãng Chargeurs Resunis (hãng Năm Sao).
Chúng ta có thể khẳng định bến đậu tàu Amiral Latouche Tréville là cầu tàu lớn của Thương cảng Sài Gòn nơi đầu đường Nguyễn Huệ. Đây là một vị trí khang trang và thoáng đãng hạng nhất thành phố: Nhìn vào đất liền qua đường Nguyễn Huệ rộng rãi thấy trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (nhà Xã Tây cũ với kiến trúc đặc sắc ghi dấu một thời), nhìn sang phía sông thấy ngôi Nhà Rồng đồ sộ với dáng vẻ Âu Á pha trộn dễ gây ấn tượng.(4)
Sau này khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, ở Việt Nam là cuộc kháng chiến chống Pháp, hãng tàu Năm Sao không hoạt động ở Việt Nam và bến cảng bỏ phế. Các tàu bè ra vào chỉ cập cảng Nhà Rồng là chủ yếu. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Thương cảng Sài Gòn trở thành bến sông cho các thuyền dịch vụ và thành phố chỉ còn 1 thương cảng là bến Nhà Rồng. Do đó ngày nay chúng ta gọi Bác Hồ ra đi từ bến Nhà Rồng vẫn được, bởi vì bến cảng Nhà Rồng ngày nay là hiện thân tiêu biểu cho các thương cảng của Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20.
(Còn tiếp)
(1) và (2) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
(3) Vàm rạch: cửa sông Bến Nghé.
(4) Theo tài liệu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu. |