Từ Sài Gòn, Bác ra đi tìm đường cứu nước
9:5', 17/5/ 2011 (GMT+7)

Những tháng đầu năm 1911, Bác tìm đến Thương cảng Sài Gòn để tìm hiểu, làm quen và kiếm việc làm. Công nhân bến cảng và các nhà máy thời đó thường đi guốc mộc, mặc áo bà ba hoặc áo bành tô bằng vải ka ki màu vàng nhạt.

4.
Trong những hãng tàu ra vào đó, Bác làm quen được với một số người Việt Nam làm ở hãng Năm Sao, vốn chạy tuyến Sài Gòn- Đà Nẵng, Hải Phòng và đi Singapore, Cô-lôm-bô, Đoong-két, Boóc-đô, Mác-xây, Lơ Ha-vrơ, Po Xa-ít, Gi-bu-ti. Hai người “bồi” Việt Nam mà Bác Hồ quen là bác Nguyễn Văn Hùm và Bùi Văn Viên. Hai ông này cho Bác biết là hãng đang tuyển “bồi”. Bác và mấy người Việt Nam nữa xuống xin việc.

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920.

Trưa 2- 6- 1911, chiếc tàu Amiral Latouche Tréville của hãng Năm Sao từ Hải Phòng cập cảng Sài Gòn. Bác xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng. Nhìn thân hình mảnh khảnh của Bác, thuyền trưởng hỏi:

- Anh có thể làm được việc gì?

- Tôi có thể làm bất cứ công việc gì- Bác đáp với lòng tự tin.

Nhìn thấy nét cương nghị và thông minh của Bác, viên thuyền trưởng mỉm cười (sau này biết tên ông ta là Lui E-du-a Mai-sen, quê ở miền Bắc nước Pháp):

- Được, tôi đồng ý nhận anh làm phụ bếp, sáng mai anh xuống đây nhận việc. Anh tên là gì?

Lúng túng một chút, Bác đáp:

- Văn Ba!

Trên tàu khi đó đã có một thủy thủ làm việc từ trước có tên là Nguyễn Văn Ba.

Ngày 3-6-1911, Bác chính thức xuống tàu làm phụ bếp. Đây là một trong những tàu lớn hồi đó vừa chở hàng, vừa chở khách. Theo hồ sơ còn lưu ở Bảo tàng hàng hải bên Pháp, tàu dài 124,1m, rộng 15,2m, chạy máy hơi nước, 2.800 mã lực, với tốc độ 13 hải lý/giờ, trọng tải 5.572 tấn và có đủ nhiên liệu để chạy một mạch 12.000 hải lý. Trong hồ sơ lưu còn có sổ lương và sổ thủy thủ. Lương tháng 6-1911 của Bác là 50 phơ-răng Pháp, trong khi những người bồi Pháp làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của Bác.

5.
Trưa 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville đã rời bến sông Sài Gòn với 72 thủy thủ trên tàu. Sài Gòn hôm đó đã thay mặt đất nước tiễn Bác. Trong chuyến hành trình đầu tiên đó, Bác đến Singapore, Cô-lôm-bô, Po Xa-ít, rồi Đa-răng, Mác-xây và ngày 15-7, Bác đến Lơ Ha-vrơ, cảng chính ở miền Bắc nước Pháp.

Bác ra đi giữa mùa bão tố tháng 6 với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó, Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, có kể lại lúc Bác Hồ làm thủy thủ trên tàu như sau: Mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò. Khi thì đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt, cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc, lại gặp nhiệt độ luôn thay đổi vì dưới bếp rất nóng, còn trong hầm thì rất lạnh. Đôi khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang, trong khi tàu chòng chành lắc lư rất nguy hiểm.

Xong công việc ấy, phải dọn cho chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, lặt rau, rửa nồi, chảo và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.

Nhà bếp lo ăn cho cả 700- 800 người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Với những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:

- Ba, đem nước đây!

- Ba, dọn chảo đi!

- Ba, thêm than vào!

Suốt ngày anh Ba người đẫm hơi nước và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong mọi việc. Và hơn nữa, anh còn phải gọt cho xong đống củ cải và khoai tây... Mỗi ngày, đến 9 giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba học hay viết đến khuya...

Một lần dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Sóng cao như những quả núi chồm lên, đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba lên bếp lại xuống hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu chòng chành dữ quá, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi. Chuyến thứ 2, một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu, cả những rổ rau và anh Ba nữa. May là anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết...(5)

Theo những bức thư của Bác gửi cho cụ Phó bảng thông qua nhà chức trách Anh còn lưu trong tài liệu mật thám Pháp, ngày 30-10-1911 Bác đã đến Cô-lôm-bô và ngày 15-12-1912 Người đến New York. Một nhà sử học Mỹ nổi tiếng, dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã cung cấp cho chúng ta tư liệu rất quý khi Bác Hồ đến Hoa Kỳ và đi thăm Tượng Nữ thần tự do. Bà đã lật xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi đến thăm và chiêm ngưỡng Tượng Nữ thần tự do.

Bà viết: “Tất cả họ đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi ngôi sao tỏa sáng trên vòng nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống dưới chân tượng và ghi: Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng như người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới”.

6.

Từ ngày 5-6-1911, Bác đã trải qua bao gian nan, cực khổ của các nghề “bồi” ở dưới tàu, “bồi” ở khách sạn, làm nghề rửa ảnh, vẽ sơn mài… và làm nghề cào tuyết cho một trường học để sống, để đi, để hiểu và hoạt động cách mạng.

Tám năm sau, tháng 6-1919, Cảng sông Sài Gòn lại chuyển về nhân dân Việt Nam bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam mà Bác đã đại diện gởi đến Hội nghị Verseille, văn kiện đó như một quả bom nổ giữa thủ đô của nước chính quốc, là tiếng thét của hàng triệu người Việt Nam. Bác đã bỏ tiền ra để in tài liệu này gởi đi các nơi và gởi về Việt Nam. Nhân dân ta biết Nguyễn Ái Quốc từ đó. Nhiều nhà Nho yêu nước ở Việt Nam đã nói: “Bầu trời Việt Nam đã xuất hiện một vì sao mới, là Nguyễn Ái Quốc”.

Từ ngày 5-6-1911, Bác rời Sài Gòn và đã đi qua gần đủ năm châu, bốn biển trên thế giới và tìm ra con đường giải phóng dân tộc, để mùa xuân của 30 năm sau (tháng 2-1941), Bác trở về Pắc Pó, lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sau đó khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Và rồi ngày 30-4-1975, con cháu Bác với chiến dịch mang tên Bác, với đường lối và tư tưởng quyết thắng của Bác đã tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ý chí quyết tâm và lòng tin của Bác trước sau như một. Ngày Bác ra đi chỉ có 2 bàn tay. Khi Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng chỉ có 2 bàn tay. Trong bài thơ “Pắc Pó hùng vĩ”, Bác viết:

“Non xa xa, nước xa xa

nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lênin, kia núi Mác,

Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Tất nhiên 2 bàn tay mà Bác nói đây là 2 bàn tay của ngót 25 triệu đồng bào Việt Nam (6). Bác tin tuyệt đối ở nhân dân, tin ở sự “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” (thơ Bác Hồ năm 1941) của tất cả mọi người Việt Nam.

Sài Gòn, thành phố phía Nam của Tổ quốc, nơi Bác tập làm quen với cách sống của thành thị trước lúc ra đi, nơi đã in sâu vào tâm trí Bác nhiều ấn tượng sâu sắc về chế độ thực dân và về những người dân nghèo bị áp bức. Nếu có dịp đọc lại những bài viết của Bác trong những năm 1920 trên các báo Người Cùng Khổ (Le Paria), Đời Sống Công Nhân (La Vie Ouvrière), Nhân Đạo (L’Humanité) xuất bản ở Pháp, cũng như tác phẩm “Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp” của Bác, chúng ta sẽ thấy Bác luôn luôn nhắc đến Sài Gòn.

Bác theo dõi từng bước đi, từng nhịp thở của nhân dân Sài Gòn ngay từ lúc Bác mới xa Tổ quốc. Bác lên án “bọn người Âu mắng phụ nữ Việt Nam là “con đĩ, con bú dù” và “ngay giữa chợ Bến Thành Sài Gòn- mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối”. Trong bài “Khai hóa giết người” đăng trên báo Le Paria ngày 1-8-1922, Bác đã tố cáo trường hợp bọn Pháp giết chết anh công nhân ở Sở hỏa xa Sài Gòn một cách cực kỳ dã man. Nhiều và rất nhiều những đơn cử như thế của Bác về Sài Gòn trên báo chí ở Pháp.

7.
Ở xa Tổ quốc, Bác biết những vụ bạo động, những cuộc biểu tình đổ máu của người Việt Nam phản đối việc bị bắt đi lính cho Pháp ở Biên Hòa, ở Sài Gòn. Bác biết rõ tháng 11-1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn vì bị bớt lương nên đã quyết định bãi công đấu tranh (Nguyễn Ái Quốc- Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp- NV). Bác biết và Bác hiểu rõ tâm tư của mọi người dân lao động Sài Gòn. Vì suốt thời gian Bác lưu lại ở Sài Gòn, Bác cũng là người lao động sống cực khổ.

Sau này, khi làm Chủ tịch nước, mỗi lần tiếp các đại biểu Sài Gòn về thăm, Bác thường nhắc về những kỷ niệm lúc Bác ở Sài Gòn. Bác nhớ rõ cảnh những người nghèo không nhà không cửa sống nhờ trên hè phố và các móng cầu. Một lần khi nữ anh hùng Tạ Thị Kiều về thăm Bác, Bác có nhắc lại một kỷ niệm nhỏ khi Bác ở Sài Gòn:

- Sài Gòn hồi đó có “nhà che cơm tấm”, Bác hay ăn lắm, họ nấu cơm tấm rất giỏi, không nhão mà ăn với tép rang hoặc tôm kho tàu rất ngon, lại rẻ tiền.

Hôm đó Bác nói: “Bác nhớ miền Nam, nhớ Sài Gòn lắm. Bác mong miền Nam mau giải phóng để Bác vô thăm”.

Sài Gòn, miền Nam đã luôn luôn trong tim Bác và hơn thế đã để lại những rung động đầu đời của một tình yêu tuổi đôi mươi.

Sài Gòn có vinh dự tiễn Bác ra đi. Sài Gòn mấy chục năm qua gan vàng dạ sắt, chiến đấu anh hùng. Sài Gòn xứng đáng được mang tên Bác. Sài Gòn đã từng đi trước về sau, ngày nay thành phố đang nỗ lực xây dựng để luôn luôn là trung tâm kinh tế văn hóa xã hội đi trước và cùng cả nước đi lên với ý chí quyết tâm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sài Gòn đã và đang xứng đáng là thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng.

...............

(5) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
(6) Năm 1945, dân số Việt Nam là 25 triệu người.

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Từ Sài Gòn, Bác ra đi tìm đường cứu nước  (16/05/2011)
“Cầm cố”… thân xác  (16/05/2011)
Người đưa nước sạch về làng  (15/05/2011)
Ra khơi câu cá bò gù  (08/05/2011)
Tôi sẽ tiếp tục theo đuổi vấn đề tiết kiệm năng lượng   (07/05/2011)
“Tôi chỉ là người đưa đò một đoạn…”  (29/04/2011)
Vũng Tàu có tàu BĐ  (24/04/2011)
Một nông dân là khắc tinh của tội phạm  (23/04/2011)
Những người phụ nữ đưa đò  (17/04/2011)
Gặp “Sao Thần nông” Nguyễn Văn Nam  (16/04/2011)
Nốt dương cầm lặng lẽ  (08/04/2011)
Nghề trên ngọn cây  (03/04/2011)
“Sống là phấn đấu và sáng tạo”   (02/04/2011)
Nuôi con kiểu… kangaroo  (27/03/2011)
Hải độ số 0  (20/03/2011)