|
Hình vẽ minh họa vua Quang Trung đại thắng quân Thanh (ảnh: www.sankhauvietnam.com.vn) |
Người ta đều biết vua Quang Trung chỉ đánh có một trận ở Đông Quan (tức Đông Kinh- Hà Nội) mà giết tan sạch hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị (Tàu) hôm mồng Bốn Tết, rồi ngày mồng Năm mới nhặt hết xác quân Tàu, chất vào một hố lớn, phủ đất lên trên, tạo thành cái gò Đống Đa bây giờ đó.
Gò Đống Đa, chẳng những là biểu hiện quét sạch quân Tàu, khôi phục nền độc lập cho Tổ quốc, nó lại gián tiếp trả thù cho mấy vạn người Nam bị chôn sống ở gò Kềnh Quán nữa (Khi đó bọn Trương Phụ, Mộc Thành vô cớ sang đánh nước Nam, bọn Phạm Tử Nhân, Nguyên Sư Cối phụng mệnh vua nhà Hồ đem mười vạn ra chống, bị Trương Phụ bắt sống, chôn sống, đắp thành đống xương Kềnh Quán ngày nay).
Tuy biết thế nhưng người ta vẫn nghi hoặc ba điều:
1) Sao quân vua Quang - Trung lại đi nhanh đến thế, chỉ trong bảy ngày trời đã vượt nổi quãng đường năm trăm cây số?
2) Chỉ dùng tám vạn quân mà thắng số định quân nhiều gấp ba lần?
3) Sao Tôn Sĩ Nghị có tới hai mươi vạn quân lại có nhiều thần công đại bác, mà chỉ một trận bị chết sạch?
Thì, đầu đuôi như sau đây:
Tháng mười năm Mậu Thân (1788) tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đem quân sáu tỉnh sang đánh nước Nam. Các tướng Tây Sơn theo kế quân sư trẻ tuổi, Ngô Thừa Nhiệm, rút quân lui rạt vào Thanh Hóa, làm cho Tôn Sĩ Nghị không khó nhọc gì mà lấy ngon được toàn cõi Bắc Kỳ. Thấy gần Tết rồi, Sĩ Nghị cho quân sĩ ăn Tết ở Hà Nội xong đã, ra giêng sẽ tiến vào Thanh, Nghệ, Phú Xuân (Huế) (ấy cái chết là tại sự ăn Tết đó).
Vua Quang Trung ở Huế được tin, liền kéo năm vạn quân gấp đường từ Huế ra Nghệ. Nghỉ lại vài ngày, tuyển thêm ba vạn quân nữa. Rồi ngày 23 tháng Chạp, đại quân đi nhanh như vũ như bão, đi suốt ngày đêm, để kịp đánh quân thù vào giữa dịp Tết. Vì đức Hoàng đế đã biết rõ cái tệ rượu chè cờ bạc của quân Tàu là thế nào rồi.
Muốn cho đại quân đi nổi mỗi ngày hơn trăm dặm, ngài nghĩ ra một kế là: trong số tám vạn quân, phải dùng ba vạn cái cáng. Cứ hai thằng khiêng một. Cứ đi được mười dặm thì thằng nằm lại xuống khiêng còn một thằng trong hai thằng khiêng lại được nằm thảnh thơi ăn uống. Nhờ kế ấy mà quân đi được suốt đêm ngày (năm 1914, quân Đức sang đánh Pháp cũng dùng kế ấy, chỉ đổi cáng ra xe mà thôi).
Đi tới Giản Thủy (?) Phú Xuyên, bắt sạch được các tiểu đội quân Tàu, không để một mống nào sổng thoát. Nửa đêm 30 Tết thì tới đại đồn Hà Hồi (Thanh Trì) năm mươi nghìn quân Tàu ở đó đương chén say túy lúy, bị quân vua Quang Trung bắt sạch. Ngài lột lấy năm vạn bộ nhung phục Tàu mà cho năm vạn quân ngài mặc vào, mỗi người phải bôi một vết vôi trắng ở cánh tay, để phân biệt với quân Tàu. Lại cho bắt hết thuyền ở bến Chương Dương, chế thành sáu trăm bức ván lớn, mỗi bức ván có mười hai người khiêng đi trước để đỡ đạn. Trước mỗi ván lại cài đầy các bó rơm. Vì ngài đã nghiệm biết ván gỗ, đạn có thể xuyên qua, chớ gặm rơm bao giờ đạn cũng bị soán lại. Hai nữa những bó rơm kia còn có công dụng rất lợi hại cho việc đánh hỏa công. Chính nhờ các bó rơm đó, mà quân Tàu bị chết thui gần hết.
Công việc xếp đặt xong, vua Quang Trung muốn tiến vào trung tâm thành Hà Nội thật nhanh, nên chia quân thành bảy đội, đồng thời tiến vào cả bảy cửa ô (cửa ô Cầu Dừa, Cầu Giấy, Cầu Dền, Cầu Muống, Đống Mác, Yên Phụ, Bạch Mai. Chỉ trừ cửa ô Quan Trưởng tức Đông Hà vì vướng sông cái và đại doanh quân Tàu đóng ở bãi Rồ Đề gần đấy).
Bọn Sĩ Nghị ham mê tửu sắc đến nỗi địch quân đã tiến vào đến tả doanh, ngọn lửa bốc sáng rực góc trời (ba giờ đêm hôm mồng 3) mà vẫn tưởng quân mình say rượu để thất hỏa! Kịp đến khi thấy đạn nổ tứ bề, quân reo như sấm, mới vội vàng nhảy ngựa tháo chạy thì còn kịp sao được nữa. Sĩ Nghị đem đội thân binh chạy qua cầu phao để thoát sang Gia Lâm. Chẳng ngờ quân đông quá, cầu phao bị đứt, mà các đoàn quân đằng cuối cầu vẫn không biết, cứ thúc nhau tiến bừa lên, thành bị nhào hết xuống lòng sông cái. Số người chết đuối làm tắt cả dòng sông! Lại khổ nỗi hai quân Nam, Tàu đều đồng sắc phục. Quân Nam nhận biết quân Tàu, trái lại quân Tàu không thể nhận được quân Nam, nên cứ bị chém chết la liệt mà không đánh lại được.
Quân vua Quang Trung, luyện theo một quân pháp rất nghiêm, hễ ra trận cứ việc tiền tấn hậu kế, chủ tiến không lùi, nên quân khí dữ tợn như hùm beo. Lại thêm vua Quang Trung có sức mạnh như Kinh Kha, Hạng Vũ, cưỡi ngựa đen, mặc giáp sắt, ngoài phủ hoàng bào, hai tay cầm đôi đồng chùy, đi trước sĩ tốt. Đôi dùi đồng nặng sáu mươi cân của ngài cứ vung đi đến đâu, địch quân tan tành đến đấy. Đánh từ tảng sáng tới tận chiều mồng Ba mới giết sạch được quân giặc; hai thượng tướng nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đều tử trận (ngõ Sầm Công là chỗ Sầm Nghi Đống chết), Tôn Sĩ Nghị chỉ đem được vài trăm quân kỵ chạy thoát về Long Châu (Quảng Tây). Nhân dân hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông vì bấy lâu vẫn khiếp oai vua Quang Trung, nay tưởng quân Tây Sơn sẽ tràn sang Tàu, dân chúng phải tránh bạt hết. Từ ải Nam Quan sang ba trăm dặm không thấy có khói lửa nữa…
Ngoài cái võ công đệ nhất trời Nam, vua Quang Trung lại có tài mở mang kiến thiết chẳng kém gì Minh Trị thiên hoàng: nào đặt ra thẻ sưu, chế ra tiền giấy, bắt Tàu phải mở ải thông thương, đón người ngoại quốc về mở tiệc buôn bán ở phố Hiến, lại đón người Anh quốc, Bồ Đào về Hà Nội mở trường đúc súng, đóng tàu. Nhà vua định đóng bảy ngàn tàu đồng, luyện trăm vạn quân để sang đánh Tàu, đoạt lại hai tỉnh Quảng… Chẳng ngờ trăm việc vừa mới bắt đầu thì nhà vua thốt nhiên tạ thế, khi đó ngài bốn mươi mốt tuổi, tai hại đau đớn cho dân tộc Việt Nam biết nhường nào! Nếu vua đừng chết non thì nước Nam vị tất đã thua gì nước Nhật.