Hàn Mặc Tử
(Nguyễn Trọng Trí)
Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay, mới trông khoảng hai mươi năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mặc Tử. Chứng bệnh của thi sĩ, cuộc đời đầy đau thương của thi sĩ, lời thơ thành thực của ông, khi nghẹn ngào, khi hoạt bát, nhưng bao giờ cũng chứa chan tình tứ hay một tin tưởng cao xa, đã làm cho nhiều người chú ý đến đời ông và thơ ông.
Song dư luận bao giờ cũng rất kỳ, đã chú ý đến người và thơ, thì dư luận dường như trộn lẫn người với thơ là một. Cho nên nói một cách công bình, thì gần đây, “người” của Hàn Mặc Tử đã làm quảng cáo cho thơ của Hàn Mặc Tử rất nhiều. Đến nỗi về ông, người ta đã viết một giọng say sưa, ông là một thi sĩ mà trên thế giới không một thi sĩ nào sánh kịp.
Vậy thơ của Hàn Mặc Tử như thế nào? Thơ ông gồm những bài Đường luật đã đăng báo, tập Gái quê (1936) và những thơ ở mấy tập ông chưa xuất bản lúc sinh thời, bây giờ người ta lựa chọn vào một tập, tập Thơ Hàn Mặc Tử.
Cũng như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử là một nhà thi sĩ luôn luôn ca ngợi ái tình, nhưng cái quan niệm về tình yêu của Hàn Mặc Tử không được thanh cao như Thế Lữ. Cái tình yêu của Hàn Mặc Tử tuy diễn ra trong tập Gái quê còn ngập ngừng nhưng đã bắt đầu thiên về xác thịt:
Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinh…
Một nường con gái trông xinh xinh…
Ống quần vo xắn lên đầu gốI,
Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình.
(Nụ cười, Gái quê, trang 7)
Sự gợi tình ấy, không phải chỉ do ở người con gái xinh đẹp. Theo sự tưởng tượng và nhờ sự cảm thông của Hàn Mặc Tử với muôn vật trong trời đất, ngọn gió thoảng qua cũng rất có tình, cho nên ông mới đặt vào miệng một cô gái có chồng những lời lo sợ tình tứ sau đây:
… Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em.
(Bẽn lẽn, Gái quê, trang 10)
Đến bài Hát giã gạo (Gái quê trang 31) của ông thì lời suồng sã quá, thứ tình yêu ở đây đặc vật chất, làm cho người ta phải lợm giọng.
Nhưng đây mới thật là mối tình man mác, mối tình quê, mối tình ở nơi đồng ruộng. Tôi lấy làm lạ rằng sao từ bài Hát giã gạo mà tác giả đã lên tới sự tuyệt vời như thế. Bài Tình quê (trang 35) tỏ ra ông có một hồn thơ thật đầy đủ, trái hẳn với bài Hát giã gạo là một bài tỏ ra tác giả là một người dễ sa ngã, đắm đuối. Hãy nghe bài Tình quê để thưởng thức lấy cái nhạc điệu êm ái và những lời rất ý nhị, nhẹ nhàng:
Trước sân anh thơ thẩn
………………………..
Lòng xuân cũng não nề (1)
Đối với một thi sĩ đã có một bài thơ mà nhạc điệu du dương đến như thế, không ai lấy làm lạ khi thấy thi sĩ ấy là tác giả nhiều bài Đường luật rất già dặn. Hãy nghe bài này trong quyển Thơ Hàn Mặc Tử:
Buồn thu
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Chỉ có thông kia chịu với trời.
Thật là những lời sầu não và đầy tình tứ, ai có thể tưởng thi sĩ là một nhà Tây học? Câu 2 thắm thiết và giọng còn ra vẻ một người thiếu niên, còn toàn bài lời chín chắn chẳng khác nào một vị lão Nho.
Thơ Đường luật của Hàn Mặc Tử không phải bài nào cũng được toàn bích như bài trên này. Nhiều bài ý rất sáo và phảng phất có cái giọng thời thế, nửa lối Tú Xương, nửa lối Thanh Quan. Thí dụ bài sau này đăng trong Phụ Nữ Tân Văn (số 97; 27 Aout 1931, trang 16) và ký tên là P.T (Quy Nhơn).
Chùa hoang
Mái sụp tường xiêu khách ngẩn ngơ
Hỏi thăm duyên cớ, Phật làm lơ
Vắng sư bụt đá toan hồi tục
Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa
Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng
Bình phong rêu bám đứng chơ vơ
Tiếng chuông tế độ rày đâu tá
Để khách trầm luân luống đợi chờ!
Thơ Hàn Mặc Tử hồi đầu như thế, mà chỉ bảy tám năm sau đã thay đổi hẳn, thay đổi ý lẫn lời. Trong thời kỳ đổi mới này, ông soạn được rất nhiều thơ và đưa ra nhiều tập: Thơ điên, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội.
Nhưng thơ ở mấy tập trên này có ít bài đã đăng rải rác trong mấy tờ báo trong Nam, còn phần nhiều chưa xuất bản. Tôi sở dĩ biết được một ít thơ trong những tập thơ chưa xuất bản trên này là xem những bài trích lục trong quyển Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại, tập Thơ Hàn Mặc Tử do Đông Phương (Sài Gòn) xuất bản và trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh.
Những người ác cảm với thơ của Hàn Mặc Tử coi hầu hết thơ mới của Hàn đều là ”thơ điên “ cả, tuy Hàn chỉ có một tập mang cái nhan tên này, và có ý nghĩa cũng khác, không phải “điên “ như người ta đã tưởng.
Tuy vậy, những người không ưa Hàn Mặc Tử cũng không phải hoàn toàn vô lý. Trong cái thời kỳ thơ Hàn đổi mới thì ”con người” của Hàn cũng thay đổi vì bệnh hoạn. Bởi thế, lời thơ ông, ý thơ ông, nhiều lúc thật dị kỳ. Hãy nghe:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Cho mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên trang giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết,
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh...
(Rướm máu. “Đau Thương” –Hàn Mặc Tử, tr 77)
Thật là những dòng ghê gớm, những dòng tưởng như sắp gây án mạng dưới mắt người đọc. Nhưng cũng chưa ghê gớm bằng những dòng sau đây:
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
(Say trăng, “Đau thương”, Hàn Mặc Tử, trang 84)
Người ta thấy bệnh phong đã ảnh hưởng đến tư tưởng Hàn Mặc Tử đến thế nào. Thi sĩ bị rặt những cảnh chết rùng rợn ám ảnh, nên trí não không còn bình thường nữa.
Lúc nào ông ta cũng nhìn thấy máu đến nỗi đối với một bài thơ của người yêu gửi cho ông cũng viết:
…Bởi vì mê mẩn, vì khoan khoái
Anh cắn lời thơ để máu trào …
(Hàn Mặc Tử, tr. 142)
Xác thịt ông bị cắn rứt quá, nên hình như ông đã cố gắng sống vớt vát lại cho nhiều hơn trong phần hồn. Bài ”Hồn lìa khỏi xác” trong tập Đau thương (Thơ Hàn Mặc Tử) là một bài mà ý và lời rất mạnh. Hãy đọc đoạn này:
Vì không giới, nơi trầm hương vắng lặng,
Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao,
Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn,
Và muôn vàn thần phách ngã lao đao.
Thật là buồn thảm và lạnh lẽo vô cùng. Thật là lời của người nằm trong thiêm thiếp mơ màng những giờ hấp hối.
Nhưng không phải lúc nào ảnh hưởng của bệnh cũng làm cho ông muốn thoát ra ngoài xác thịt và chỉ thấy rặt những cái chết ghê sợ, ông cũng có những phút bình tĩnh để lắng nghe những lời năn nỉ của hư vô:
Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm
Có thứ gì rơi giữa khoảng im
Rơi tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim.
(Huyền ảo - Thơ Hàn Mặc Tử)
Lời thơ trong sáng, êm như ru, còn ý thơ nhẹ nhàng man mác, toả ra như mây khói. Mà cảm động, huyền diệu biết bao. Tình tứ đến thế là cùng, cảm động đến thế là cùng, Một người mang bệnh rất đau đớn mà có tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ.
Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mặc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ Đồng Trinh Maria và chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới. (Bài Thánh nữ đồng trinh Maria - Xuân như ý).
Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa vào thi ca con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới.
Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhưng thơ ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình như không phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thơ, bệnh ông nhiều khi lại làm cho ông có những ý tưởng khác thường, nên nhiều bài thơ của ông chỉ là bằng chứng rất lạ cho những người muốn khảo sát một tâm trạng, một linh hồn đau khổ. Về sự thành thật, có lẽ Hàn Mặc Tử hơn hết cả các nhà thơ hiện đại. Cũng vì ông rất thành thật nên thơ ông theo sát hẳn tính tình cùng tư tưởng của ông, bên những bài tầm thường, người ta thấy dưới ngòi bút ông những bài tuyệt tác.
Nhân loại chả tạo nên những cái hay và những cái dở là gì?
15-6-1942
Trích cuốn Nhà văn hiện đại, quyển 3, Hà Nội 1942 |