IV- Những trang bình luận
Quách Tấn
11:1', 19/4/ 2005 (GMT+7)

Ảnh hưởng đạo phật trong thơ Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc.

Đó là vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc - nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn... của một tâm hồn. Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn - một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ - mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng theo ý muốn của người thơ.

Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc...

Trong tâm hồn Tử không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo.

Vì không có những bức thành ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nênTử đã đi tìm cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng là ”Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo vào dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh nữ đồng trinh là một.

Bài này là những lời Tử dâng lên đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả” mà Thánh nữ đã ban cho Tử trong ”cơn lâm luỵ”. Trong bài có những chữ ”Từ bi“, “Ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:

Lạy Bà là đấng tinh truyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.

....................

Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ                                

Ngọc như ý vô tri còn biết cả,  

Huống chi tôi là thánh thể kết tinh.

Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh

Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới...

Hai chữ “từ bi” còn thấy dùng trong nhiều bài khác, như trong bài Cao hứng:

Thơ tôi thương huyền dịệu

Mọc lên đạo từ bi...

Trong bài Hãy nhập hồn em:

Bỗng hôm nay trước cửa bóng trăng quì

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu.

Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,

Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.

Trời từ bi cảm động ứa sương mờ

Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá.

Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã,

Đoán anh chừng cơn ấy em ngất đi...

Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “hằng hà sa số”,”mười phương”, v.v...cũng thường gặp trong thơ Tử:

Mây vẽ hàng hà sa số lệ

Là nguồn li biệt giữa cô đơn...

(Cuối thu)

tin thôn xa đến,                 

Có điềm lạ đêm nay.

Đóng cửa mười phương lại,

Dồn ánh sáng vào đây...

(Điềm lạ)

Ta cho một dòng thơ rất mát

Mới tinh khôi và tinh sạch bằng hương.

Trời như hớp phải hơi men ngan ngát

Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương...

(Nguồn thơm)   

Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài.

Thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài Phan Thiết:

Nhớ khi xưa ta là chim phụng hoàn

Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất...

Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất,   

Và lùa theo không biết mấy là hương.                                                                     

Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,

Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả

 .........................

Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,

Thơ phép tắc bỗng kêu rêu thống thiết :

- Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !

- Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu

- Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư !

Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như ”thành chánh quả “, “sông Hằng”..., ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Ly”, trời ” Đâu Suất” - những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng, - chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hoá một cách tài tình: Con chim phụng hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, ”nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà ”chôn hận nghìn thu“ và ”sầu muộn ngất ngư“.

Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: Những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hoá:

Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,

Trăng tan tành rơi xuống một cù lao

Hoá đài điện đã rất nên tráng lệ ...

Và cõi đời này - mà Phan Thiết là tượng trưng - là nơi đau khổ, là nơi ”chôn hận nghìn thu”, là nơi ”sầu muộn ngất ngư”.

Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.

Thật vậy: Trong nhiều vần thơ của Tử chúng ta thấy ẩn hiện những hình ảnh trang nghiêm và kiều diễm của cõi Tây Phương :

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền,

Không u ám như cõi lòng ma quỷ.

Vì có Đấng hằng Sống hằng Ngự trị,

Nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh....

(Ngoài vũ trụ)

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc

Rất trọng vọng, rất thơm tho,man mác,

Rất phương phi trên hết cả anh hoa...

(Ra đời)

Bút xuân thu mùa nhạc đến vừa khi

Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi :

Cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc.

Và đầu hôm một vì sao liền mọc.

Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô !

Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,

Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo...

(Đêm xuân cầu  nguyện )

Những “ánh sao vô cùng, sáng láng cả mọi miền”, những tiếng ”nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác...”,  những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc”... ở trong thơ Tử là vang bóng của “vô lượng quang”, của “thiên nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo”... trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.

Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử; nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn át, nên chúng ta không trông thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. Như trong bài tựa Xuân như ý có đoạn rằng:

“Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao ? Lòng vô lượng đây không phải do phép tắc màu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung ? Đưa ra nào nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn li tao, tranh tuyệt phẩm... Đưa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược ... vẫn chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao ! Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời...

Bình an cả và thiên hạ ...

Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mỹ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sanh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê li, tuổi xuân là Ngọc Như Ý, tên xuân là Dạ Lan Hương .

Và Xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả dải Hà sa, chen lẫn vô tận hồn tạo vật ...”

Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hoá bằng những hình ảnh tượng trưng ?

Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (Lòng vô lượng),  mà biểu hiện màu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời), chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời gian (năm muôn năm) .

Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Tử đã quan niệm cái tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô Chung, và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu “ của đức Chúa Trời, nênTử “cao rao danh Cha cả sáng”.

Như thế là Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa ? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình ?

Thưa không phải.

Tử là một nhà thơ thuần tuý.

Tử tìm vào Đạo - Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật - chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho Thơ thêm giàu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể là ”phạm thượng“ đối với những Đấng Thiêng Liêng Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám  nói:

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ :

Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ.

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,

Trí tôi hớp bao nhiêu khí vị,

Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí,

Và trong tay nắm một nạm hào quang ...

Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa, hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng :

Ta chấp tay lạy quì hoan hảo,

Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không  gian,

Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân

Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế...

(Đêm xuân cầu nguyện)

Nghĩ đến những gì “giàu sang hơn Thượng Đế “, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện :

Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giê Su

Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối.

Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng

Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng ...

Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính!Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ chúa trên thơ.

Còn đối với đạo Phật ?

Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử và Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của một nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu giống, không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng hứng lấy những gì có thể hứng được trong cõi thơm thắm mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng tràn ra ngọn bút những lúc thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng..., và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng.

Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo ,- trong Phật giáo cũng như trong Thiên Chúa giáo - một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thế, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng :

 - Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hoà cả hai thể văn tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chỉ là muốn làm giàu cho nền văn chương chung .

Bởi vậy khi đọc thơ Hàn Mặc Tử  chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm thông cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.

Nha Trang, mùa Xuân năm Tân Sửu (1961)

 

(1) Vũ Ngọc Phan trích cả bài; ở đây chỉ nhắc lại câu đầu, câu cuối.

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Vũ Ngọc Phan  (14/04/2005)
Trần Thanh Mại, Hoài Thanh - Hoài Chân  (12/04/2005)
Nguyễn Văn Xê  (10/04/2005)
Thi Nại Thị, Quách Tấn, Yến Lan  (10/04/2005)
Hoàng Diệp  (05/04/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi (Kỳ 3)  (05/04/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi (Kỳ 2)  (31/03/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi  (27/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 4)  (25/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 3)  (22/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 2)  (20/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 1)  (17/03/2005)
1. Những người thân yêu  (15/03/2005)
I - Đời riêng (kỳ 3)   (13/03/2005)
I- Đời riêng (kỳ 2)   (10/03/2005)