IV- Những trang bình luận
Chế Lan Viên
15:31', 21/4/ 2005 (GMT+7)

Hàn Mặc Tử, anh là ai?

Bây giờ Hàn Mặc Tử đã nằm trên một điểm cao Gành Ráng đối diện với bể Đông, bể chói lòa như thơ Anh và giông bão tựa đời Anh. Nằm với trăng sao như Anh từng mơ ước:

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Dưới kia là thành phố Quy Nhơn (những thành phố miền Trung thường có các nhà thơ ở trong và biển ở mé ngoài) - thành phố của mẹ già nuôi Anh “cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế ”, của chị Lễ “chị cũng trăng mà em cũng trăng” của em Hành đem cơm cho Anh trong suốt bốn năm trời Anh phung hủi, và trước khi vào Quy Hòa để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp lạy cảm ơn em. Quy Nhơn, thành phố của bạn bè, của bóng dáng tên tuổi những người yêu, cũng là nơi Tử phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị bắt đưa vào trại cùi trong núi. Nhưng Quy Nhơn đối với cả nước và nơi Anh viết những trang thơ ngời chói, máu và nước mắt đời Anh đã khúc xạ, đã biến hóa, đã hóa kiếp, thăng hoa, kết tụ thành trăng sao.

Chỉ có trăng sao là bất diệt

Cái gì khác nữa thảy đi qua

Thôi cả cuộc đời bi thảm của Tử kia, dù bi thảm đến đâu cũng đã qua rồi. Cái còn lại là những bài thơ đã từ thời Anh đi thẳng vào “thời đại lớn” chữ của Báctin), rồi hôm này từ “thời đại lớn” ấy về thời đại chúng ta.

Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.

Bậy nào, sao lại không. Hôm nay có hàng vạn hàng chục vạn tấm lòng đến cùng Tử đấy.

Tôi không muốn nhắc lại cuộc đời của Tử, vì người ta đã viết thêm quá nhiều, và cũng viết bớt quá nhiều. Viết bậy càng lắm lắm. Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ được một con chuột nhắt thơ nào, thì việc gì ở đây ta phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, chói lòa trong văn học của thế kỷ. Cho nên cũng không mất công đâu khi vì văn Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh.

Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Tản Đà đã định khen thơ Anh trên báo nhưng rồi tiên sinh qua đời. Làm một bài thơ như bài Cửa sổ đêm khuya đọc lui, đọc ngược sáu cách, Tử rất giỏi.

Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương

Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương

Tha thướt liễu in hồ gợn sóng

Hững hờ mai thoảng gió đưa hương

Xa người nhớ cảnh tình lai láng

Vắng bạn ngâm thơ rượu bẻ bàng

Qua lại yến ngàn dâu ủ lá

Họa đàn sẵn có dế bên đường.

Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ hai chữ đầu đọc xuôi, bỏ hai chữ cuối đọc xuôi, bỏ hai chữ đầu ngược, bỏ hai chữ cuối đọc ngược. Tử làm bài ấy lúc 17, 18 tuổi, cũng là một cách xem thường tài vua Tự Đức “chả mấy giỏi” hơn mình. Sau này, có lúc Tử xem mình là “vua nhà Nguyễn (Nguyễn Trọng Trí là tên anh) bay trên mây”, cái nầm mống phạm thượng biết đâu không bắt đầu từ lúc làm thơ thuận - nghịch độc ấy.

Tử có rất sớm, trong khuôn khổ gò bó trói voi bỏ rọ của thơ Đường luật mà có, cái khả năng Thượng thanh khí, hóa (tên một tập thơ của Anh về sau), tâm tưởng tâm hồn hóa”

Tương tư mộng thấy năm canh mộng

Luyến ái trời vương bốn phía trời

Cái khả năng thế-tục-hóa, da-thịt-hóa

Bóng nguyệt leo song, sờ sẵm gối

Gió thu lọt cửa cọ mài chăng

Khả năng kỳ ảo, ma-quái-hóa cũng xuất hiện rồi:

Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt

Khép phòng đốt nến, nến rơi châu

Đấy không phải là thủ thuật, kỹ thuật, những cách bên ngoài. Hoặc, nếu là thế thì cũng nhờ có một cái cốt thế nào đó, một cấu trúc tâm hồn thế nào đó ở bên trong. Hàn Mặc Tử lúc ấy còn lấy tên Phong Trần, tên Lệ Thanh đi về, qua lại giữa trời và đất, cảnh và người, thực và hư... rất thoải mái. Hơi văn lúc thì thu cả cảnh vật vào trong dúm chữ “Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt”, lúc thì văn chương chữ nghĩa tuột ra khỏi lòng như một tiếng kêu, một ngọn gió, nhát dao: “Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt”. Năng lực đàn hội ấy cũng khá rõ ràng. Nhưng phải có cơn bão máu, trận hồng thủy tai ương, những động đất tâm hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng về sau, thì các khả năng kia mới lên cái thế bình phương như ta thấy. Từ 1936 đến 1940, nghĩa là sau khi rời Sài Gòn, ra Gái quê, về Quy Nhơn thọ bệnh, cho đến lúc ra Quy Hòa và mất, Anh đã làm quá trình một thế kỷ về thơ (1936 - 1940), cũng là thời kỳ tôi học ở Quy Nhơn, giới thiệu dìu dắt tôi vào thơ là công Anh lúc đó. Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ phương Đông, Anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Âu. (Chỉ so với André Breton, ông tổ siêu thực không thôi cũng đủ thấy rõ). Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời, còn Anh thì bằng máu.

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy diên cuồng mửa máu ra

Văn học cần nói những vấn đề chung, phổ biến cho nhân loại. Nhưng oái ăm chưa, nó lại đòi cái người nói đó là một cá nhân, một bản lĩnh, một sắc thái riêng, không giống ai, chỉ có một bản duy nhất, không lập lại hai lần. (Nói thế chứ trong văn học người ta vẫn na ná nhau khối ra đấy! Hàn Mặc Tử thì không. Anh chỉ có một, thật. Như một Rimbaud của Pháp, một Holderlin của Đức, một Edgar Poe của Mỹ, một Bồ Tùng Linh của Trung Quốc, một Maiakovsky (trước cũng như sau cách mạng tháng Mười) của Liên Xô.

Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng có người vượt lề thói tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa: Vầng trăng ai xẻ làm đôi (Nguyễn Du). Cần truyền thống lại cũng cần biến dị, cần nói điều chưa ai nói (người ấy không nói thì ta mất đi, ta nghèo đi cái điều đặc biệt, duy nhất người ấy nói ra).

Hôm nay có một nửa trăng thôi

Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi

Ta nhớ mình xa thêm đứt ruột

Không phải ma thuật, kỹ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm bảo đảm, thì mới có thể phát ra các từ kia.

Người Trung Quốc xưa đánh giá thơ nào thâm, nào chân, nào thiện, nào cao, nào tân, nhiều thứ lắm. Tân là “mới”. Nhưng sau tân, lại còn của tân nữa, đó là kỳ (lạ).

Tóc dài ba nghìn trượng

Vì sầu nên hóa dài

(Lý Bạch)

Bốn dây ứa máu Tỳ bà

(Tương An)

Và đêm nay hồn anh về ngủ thắt lưng em

(Ca dao H’mông)

Mái nhà dài như một tiếng chiêng. Tóc nàng dài đến nỗi thả ra thì xuống tận đất như một thác nước và che bóng râm như một cây knia.

(Dân ca Tây Nguyên)

hay khi Nguyễn Du tả ma

Dấu dày từng bước in rêu rành rành

thì đều là kỳ đấy, đều là siêu đấy! Mà nào ta có mất thực đi đâu. Ta được nó một cách khác, ở một nhiệt độ, cường độ khác.

Người châu Âu đẩy cái kỳ đến cùng, và kỳ cùng chủ thì từ yếu tố nó thành chủ nghĩa. Chủ nghĩa siêu thực còn có tên là romantisme fiesqu’au bout (chủ nghĩa lãng mạn đến cùng), rượu trên 100 độ. Thế thì chết. Chúng ta chống chủ nghĩa siêu thực, chống chủ nghĩa siêu thực ở dạng ấy, ở độ ấy, trương lên thành ngọn cờ tướng chỉ huy ấy. Aragon, Éluard, các vị tổ sư, tướng lĩnh từng phất ngọn cờ ấy, đã vứt nó, để trở thành người lính, rồi chủ soái trên thi đàn hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi đã thành nguyên soái của thi đàn này, các ông vẫn sử dụng các yếu tố siêu thực, sử dụng siêu thực như yếu tố, cho cái hư ảo nó phục vụ, hiện thực mình. Và sung mãn hơn lên vì vậy: Chân chân chân, thật thật thật nhưng lại còn đi với ảo ảo ảo nữa. Diệu ơi! Hàn Mặc Từ không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau anh vẫn là lãng mạn, dùng nhiều yếu tố hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực: đó cũng là điều trước đây cha ông đã dùng. Nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như Anh. Dù đó là Lê Thánh Tông ở Di thảo, Nguyễn Dữ ở Truyền Kỳ mạn lục, Nguyễn Du ở Chiêu hồn hay lúc tả Đạm Tiên. Sau này không biết có ai thừa kế Anh không? Cho nên nhìn trước nhìn sau, Anh là của hiếm ở đất nước luôn luôn cần tỉnh thức nên hóa ra quá tỉnh táo là đất nước mình. Trên thế giới thì lại khác! Cần chống lại với cái không khí duy lý đến cùng, duy lý quá quắt của thời đại máy móc kỹ thuật, biểu đồ, thống kê, công thức này. Các nhà văn châu Âu hiện nay rất mê chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo của châu Mỹ la tinh, trong đó các yếu tố kỳ, hư ảo, ma quái, huyền thoại, siêu thực đã được phát huy để nuôi hiện thực. Asturias, Carpentier, Marquez đã được đánh giá cao và hâm mộ ở Liên Xô. Tử trong thời gian chúng tôi gần chỉ thấy Anh nói về baudelaire, chớ Lautreamont, Gérard de Nerval. Anh cũng ít nói đến, nói chỉ là Breton. Anh có biết hay không chủ nghĩa siêu thực? Chắc là không. Giờ bảo Anh có xa gần với các họ hàng đầy biến động, thích biến dị, luôn biến hóa đó, có khi anh giận giữ cũng nên! Anh chỉ nói:

Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lại cả miền không gian

Hay

Tôi điên tôi nói như người dại

Van lạy không gian xóa những ngày

Và Anh giải thích vì đâu mà điên, bởi đâu mà dại:

Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản bội lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá. Tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”.

Càng chứng tỏ là siêu thực của Anh không phải từ sách vở ra, từ châu Âu đến, mà từ thảm kịch của Anh mà ra.

Nàng” ở đây không phải là cô con gái nào đâu! Nàng đau thương đấy. Tử thường đọc Baudelaire:

Sois sage ô ma douleur et tiens - toi plus tranquille

(Hãy khoan hỡi em yêu thương và em đứng yên nào!)

Tử bảo Anh khóc, Anh gào, Anh rú. Tử quên mất (và chúng ta cũng quên theo) là Anh cười nữa chứ.

Ha ha! Ta đuổi theo trăng

Ta đuổi theo trăng

Trăng soi lả ngả trên cành vàng

Hoặc

Hôm nay vui quá anh Phùng ơi

Cười nói làm sao cho hả hơi

Mà cười như thế là không điên đâu, chả dại chút nào! Anh chả thèm làm thơ của sự chết, của Hư vô, như những người viện Heiddeger, viện Jaspers, rồi dán cho Anh nhãn hiệu có dấu âm, có hơi âm ấy.

Đầu cân bên này có tiếng cười ha ha, đầu cân bên kia lại là một cuộc đời bi thảm vào bậc nhất. Giá tiếng cười ấy đắt lắm, nặng đồng cân lắm, chứ đâu phải thứ nhở nhơ cười, hể hả cười của chúng ta đâu.

Xin dâng này máu đang tươi

Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau

Ta có chịu nghe tiếng cười đắt giá đó không? Và có khôn lỏi ném tiếng khóc kia đi, hắt cái máu kia đi, chỉ lọc lấy một tiếng cười đưa vào Tuyển tập, đã vô trùng hóa. Nhưng nghe tiếng khóc kia, thì ta có thể bị nhiễm độc không? Ngược lại, giữ gìn bịt tai không nghe nó, thì ta có bị thiệt thòi gì...

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Yến Lan  (19/04/2005)
Quách Tấn  (19/04/2005)
Vũ Ngọc Phan  (14/04/2005)
Trần Thanh Mại, Hoài Thanh - Hoài Chân  (12/04/2005)
Nguyễn Văn Xê  (10/04/2005)
Thi Nại Thị, Quách Tấn, Yến Lan  (10/04/2005)
Hoàng Diệp  (05/04/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi (Kỳ 3)  (05/04/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi (Kỳ 2)  (31/03/2005)
3. Những bóng dáng khuynh thi  (27/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 4)  (25/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 3)  (22/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 2)  (20/03/2005)
2. Những vòng tay nối kết (kỳ 1)  (17/03/2005)
1. Những người thân yêu  (15/03/2005)