Dù đã ngoài tuổi 80, bok Hưa (ở xã Bok Tới) vẫn đam mê với nghề làm gùi, vạt, nỏ, khung dệt…; còn bok Chắt, giá Chanh, bok Sĩ, bok Hay… thì làm cây nêu, đàn Pơlơnkhơn, đàn T’rưng… Họ được coi là những “người giữ lửa” cho văn hóa truyền thống dân tộc Bana ở hai xã vùng cao Bok Tới và Ðăk Mang của huyện Hoài Ân.
|
Bá Hưa, người đan gùi đẹp nhất của xã Bok Tới. Ảnh: H.Y
|
Giữa đại ngàn Bok Tới và Đăk Mang, chúng tôi tìm gặp các nghệ nhân đã và đang âm thầm làm nhiệm vụ lưu truyền những giá trị văn hóa của người Bana.
Hồn của núi rừng
Đến làng T2 (xã Bok Tới), chúng tôi được cán bộ văn hóa xã đưa đến nhà giá Chanh (69 tuổi). Bước vào một ngôi nhà sàn nhỏ, chúng tôi đã nghe một giọng hát phụ nữ cất lên ngọt, ấm. Giọng hát làm xao xuyến lòng người, dù tôi không biết tiếng Bana. Anh Ngốp giới thiệu: “Người đang hát là giá Chanh đó. Giá là người hát hay và biết nhiều bài hát của người Bana nhất xã. Giá biết dùng cây Tai Mang khô làm đàn Pơlơnkhơn, một loại đàn treo ở bờ nương, góc rẫy để đuổi chim muông và thú rừng đến phá hoại cây trồng…”.
Thấy khách tới nhà, giá ngừng hát, niềm nở đem ché rượu ở góc nhà sàn ra mời. Vừa uống rượu, giá vừa kể: “Cái miệng mình nó thích hát từ khi biết nói. Cái tai mình thích nghe tiếng đàn của cha mình từ lúc nào không nhớ nổi”. Cũng vì mê đàn, ngày nhỏ, có đêm một mình giá lặn lội lên rẫy lấy đàn của cha treo trên thân cây xuống tập đánh. Năm 15 tuổi, giá được cha truyền dạy đánh và làm đàn Pơlơnkhơn. Dần dà, giá trở thành người đánh đàn Pơlơnkhơn giỏi nhất vùng. Giá có thể đánh đàn cả ngày lẫn đêm ở các lễ hội, đám cưới của người Bana mà không biết mệt. Còn việc hát dân ca Bana, giá nghe nhiều, rồi ngấm vào người lúc nào không biết. Chồng giá, bok Chắt (75 tuổi), cũng là người làm cây nêu giỏi nhất vùng. Mỗi cây nêu huy động khoảng 30 người, làm từ 3-7 ngày. Nhưng chỉ bok Chắt là người khắc hoa văn hình con mang, khỉ, voi, đại bàng… chìm hoặc nổi đẹp nhất.
Tại xã Đăk Mang, chúng tôi được các bok kể lại câu chuyện về bok Du giỏi chơi các loại đàn, nhất là đàn Pơren và là người giữ “kho báu” chuyện cổ tích của người Bana. Từ nhỏ, cậu bé Du đã được người mẹ của mình kể cho nghe những câu chuyện thần thoại về chàng Giông, về sức mạnh phi thường của thần sét... Hơn 12 tuổi, bá Du đã thuộc vanh vách những câu chuyện dài như con suối, như vực sâu của làng O6, rồi của cả vùng đại ngàn ở Hoài Ân. Cứ sau một ngày lao động mệt nhọc, buổi tối, bà con ở làng O6 lại tụ tập tại nhà rông hoặc nhà bá Du để nghe kể chuyện. Cũng có khi ở ngay trên rẫy, mỗi lần cao hứng, bá Du lại vừa đánh đàn, vừa cất cao giọng hát giúp mọi người xua đi mệt nhọc. Dấu chân bá Du đã băng qua bao bản làng, đồi nương để kể chuyện cho đồng bào mình nghe, khi thì trên nương rẫy, khi thì ở các lễ hội trong vùng.
|
Giá Chanh, người đánh đàn Pơlơnkhơn giỏi nhất vùng Bok Tới, Đăk Mang. Ảnh: VÕ CHÍ HÀ
|
Giờ đây, bá Du đã “về với giàng”, những câu chuyện như dòng suối ngọt lành theo năm tháng bồi đắp và nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ dân làng cũng “về với giàng” theo ông.
Những nghệ nhân còn giữ gìn các giá trị văn hóa nghệ thuật người Bana ở xã Đăk Mang chỉ còn bok Hay (83 tuổi) và bok Trường (80 tuổi), đều ở làng O10. Bok Hay là nghệ nhân truyền dạy các bài hát Bana cho lớp trẻ ở vùng; còn bok Trường là người cuối cùng trong vùng am hiểu sâu sắc giá trị tâm linh, cấu trúc truyền thống của một nhà sàn, nhà rông Bana.
|
Bok Hay, nghệ nhân đánh đàn Poren ở xã Đăk Mang. Ảnh: Văn Lưu |
Nỗi niềm “người giữ lửa”
Theo dòng chảy thời gian, các giá trị văn hóa của người Bana không còn được sử dụng thường xuyên như trước. Mỗi khi có lễ hội lớn trong vùng thì già làng, cán bộ văn hóa xã lại đi tập hợp một số thanh niên, rồi nhờ các nghệ nhân truyền dạy. Song do thời gian truyền dạy ngắn, nên chất lượng không được đảm bảo. Sau ít ngày tập luyện, biểu diễn hoặc đi thi ở các lễ hội, chẳng mấy thanh niên Bana chịu khó học hỏi thêm từ nghệ nhân. Giá Chanh có 9 người con nhưng chỉ có mỗi anh con cả Đinh Văn Khiêm là chịu học đánh và làm đàn Pơlơnkhơn. Chẳng may, anh Khiêm qua đời vì cơn bạo bệnh. Người em thứ bảy của anh Khiêm là Đinh Văn Kinh thay anh học đánh đàn Pơlơnkhơn. Nghe nhắc đến người con cả đã mất, giá Chanh rưng rưng: “Kinh chỉ là người biết đánh đàn chứ không hay, không biết nhiều bài để đàn và lại càng không biết làm đàn như Khiêm. Giá giờ đã yếu, không thể vào rừng sâu tìm cây Tai Mang tốt để làm đàn Pơlơnkhơn được nữa. Vì vậy, đàn chỉ sử dụng được vài tháng là “nhạt” tiếng”. Vì lý do này, hiện trong nhà giá chẳng có cây đàn Pơlơnkhơn nào để biểu diễn cho chúng tôi nghe.
|
Bok Chắt, nghệ nhân làm cây nêu nổi tiếng của xã Bok Tới. |
Dẫu anh Kinh không đàn giỏi bằng anh mình, thì ít ra giá Chanh vẫn còn người để truyền nghề. Các nghệ nhân khác thì chẳng thể tìm đâu ra. Nhắc đến việc tìm thế hệ tiếp nối, bok Chắt ngậm ngùi: “Mỗi lần làm cây nêu, chỉ có người già tập trung làm, dù mắt không còn sáng, tay không còn khéo như xưa nữa. Bọn trẻ trong làng bận sản xuất hoặc đi học, nên chẳng đứa nào chịu học, chịu làm nêu”.
Hàng ngày, bok Hưa vẫn miệt mài ngồi vót mây, đan đát mà vẫn không kịp giao hàng cho khách vì cả vùng này chỉ còn mỗi bok biết đan các hoa văn bằng mây hoặc cài thêm hoa văn bằng thổ cẩm vào vạt. Người Bana trong vùng, kể cả những vùng lân cận, không ai chịu khó vào rừng sâu bứt mây về vót, đan như bok nữa. Khi nào cần gùi, vạt, nỏ… họ lại đặt bok làm giúp. Anh Đinh Văn Ngốp giãi bày: “Trong làng, cũng có vài ba người biết đan đát nhưng vì ít làm, không quen tay, nên sản phẩm không đẹp, không bền như bok Hưa”.
Không tìm được người học để nhớ các câu chuyện cổ tích, bok Hay nghĩ ra cách sẽ chép lại bằng tiếng Bana, giữ lại cho đời sau. Tuy nhiên, do tuổi đã cao, sức đã yếu, bok lo không chép được nhiều chuyện
|
Thỉnh thoảng, mí Sơn vẫn dệt những tấm áo thổ cẩm để mặc hoặc bán để giữ nghề. Ảnh: H.Y |
Trong các nghệ nhân ở các xã miền núi của huyện Hoài Ân, nghệ nhân đàn T’Rưng Đinh Văn Sĩ là có tuổi đời còn trẻ (mới 45 tuổi). Bok Sĩ tâm sự: “Ngày xưa ông bà, cha mẹ mình dạy cho mình biết, nay mình cũng muốn dạy lại cho con cháu mình trong làng, để cái vốn văn hóa của dân tộc mình không mất nhưng sao mà khó quá. Lớp trẻ bây giờ không chịu khó, chịu khổ học hỏi như mình trước kia nữa”.
Nhắc đến việc giữ gìn giá trị văn hóa, Bí thư Đảng ủy xã Bok Tới, ông Đinh Xuân Á, cho biết: “UBND xã đã đầu tư hơn chục triệu đồng mua sắm thiết bị âm thanh giúp các đội văn nghệ tập luyện. Tuy nhiên, do điều kiện kinh phí, xã không thể tổ chức các lễ hội làng, trong khi đó, lễ hội dành cho đồng bào người Bana của huyện và tỉnh còn ít. Bởi vậy, thanh niên Bana không được tập luyện, trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm từ nghệ nhân”.
Trở về miền xuôi, chúng tôi vẫn còn ám ảnh hình ảnh bok Hưa đưa mắt nhìn về phía đồi núi cao, vuốt bộ râu trắng xóa, thổ lộ: “Nếu ta và các bok Hay, bok Trường… “đi theo giàng” rồi, buôn làng người Bana này lấy ai mà hát hơamon, kể chuyện cổ tích cho con cháu nghe; làm gùi, vạt cho con cháu dùng nữa. Rồi đám trẻ sẽ không được học bao điều hay, đẹp về văn hóa, phong tục, lối sống của người Bana”.
Người Bana ở Hoài Ân sinh sống chủ yếu ở 12 làng thuộc hai xã Bok Tới và Đăk Mang. Nổi bật trong đời sống văn hóa của đồng bào Bana là các lễ hội như lễ ăn mừng làng mới, lễ xây dựng nhà rông, lễ cúng bến nước, lễ khai rẫy, lễ ăn cốm lúa mới, lễ ăn trâu cầu phúc, lễ về nhà mới, lễ cưới, lễ đặt tên con, lễ bỏ mả… Kho tàng văn hóa dân gian của người Bana trù phú với các loại hình dân ca, dân vũ, hát hơamon, kể khan, caliêu-cachoi, xoang…; các loại nhạc cụ dân tộc làm từ chất liệu gỗ, đá, kim loại như cồng chiêng, đàn Pơlơnkhơn, đàn T’rưng, đàn Pơren, sáo Pơlía, kèn Hơđâng… |
|