Nhũ mẫu đang loay hoay khíu lại đường chỉ tuột nơi mép chiếc hài nhung, bỗng bà dừng mũi kim ngửng nhìn ngọn bạch lạp. Ngọn sáp chỉ còn một đoạn ngắn chưa đầy gang tay. Bà liếc xéo về góc thư phòng, vẫn thấy Huyền Trân đang mãi mê đọc sách. Bà nhẹ nhàng đến cạnh công chúa vòng tay lễ phép: "Thưa công nương, đã tới giờ, thỉnh công nương về phòng nghỉ".
Công chúa ngước lên nhìn nhũ mẫu, hai bàn tay ngọc với những ngón thon dài vẫn giữ khư khư trên mặt cuốn sách để ngỏ. Đôi mắt tròn với hàng mi xanh đậm nhướng lên nhìn nhũ mẫu với vẻ nài nỉ -"Xin nhũ mẫu thư cho một chút, tôi đang đọc đến chỗ hay".
Nhũ mẫu nhìn cuốn sách dày, chữ nhỏ li ti, bà tự lượng, nếu để cho tiểu chủ đọc qua đêm cũng chưa chắc đã hết. Khẽ nhíu đôi mày, bà đáp lại cái nhìn của Huyền Trân với vẻ cung kính, nhưng không có chút gì tỏ ra bà chịu nhượng bộ - "Xin công nương hiểu cho già này. Nếu công nương cứ ngày đêm đắm chìm vào những cuốn sách như thế kia. Khiến vóc hạc hao gầy, tâm thần mỏi mệt thì kẻ tiện tì này thật vô cùng đắc tội với vong linh hoàng thái hậu, và phụ cả lời ủy thác của thượng hoàng". Nhìn Huyền Trân với vẻ ái ngại, nhũ mẫu lại nói - "Đêm nào cũng tới canh khuya, công nương mới chịu đi nghỉ. Sách nào công nương cũng khen hay".
Đôi má ửng hồng lên như một trái đào khoe mã, khẽ nhếch cặp môi đỏ mọng như tô son, để lộ ra hia hàm răng nhỏ, trắng muốt như những hạt ngô nếp. Công chúa nói giọng dịu ngọt tựa lời hát ru - "Lẽ nào nhũ mẫu chẳng thương tôi. Tôi đâu dám sao nhãng đạo nhà để sa vào đám yêu thư. Chẳng qua tôi mê say là mê say với đạo lý của thánh hiền. Bữa trước tôi thức trắng đêm là để nghiền ngẫm cho thấu đáo cuốn "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" (1) của đức Quốc công tiết chế, là bậc thượng phụ của tôi. Còn bữa nay, tôi đang đọc khúc Ly tao của Khuất Nguyên, một áng thơ trác việt, xin nhũ mẫu hiểu giùm cho. Tôi đâu có phải là một đứa trẻ không biết vâng lời người trên".
Với vẻ mặt đau khổ, nhũ mẫu hơi cúi thấp đầu xuống như người có lỗi, bà nói:"Xin công nương tha thứ cho sự lỗ mãng của kẻ tôi tớ của người. Song già chỉ lo ngày mai lễ thượng nguyên, công nương đã nhận lời với quan đại an phủ sứ của kinh sư, là người chủ lễ cuộc đua thuyền. Vả lại ngày mai thế nào thượng hoàng cũng về, và quan gia cũng tới. Công nương không thể với vẻ mặt mệt mỏi của người thiếu ngủ tới lễ hội được".
Bất đắc dĩ công chúa phải thuận theo lời khuyên của nhũ mẫu. Nàng với lấy chiếc lông ngỗng cắm trong giá bút, kẹp nơi trang đang đọc giở rồi đặt cuốn sách vào án thư. Đúng lúc ngoài hoàng thành dóng hồi trống sang canh. Nhũ mẫu ngước nhìn Huyền Trân vẻ lo lắng. Bà một hơi thở nhẹ và buột ra hai tiếng:"Khuya rồi!"…
Trống canh năm vừa điểm, cả kinh thành như bừng lên một sức sống khác thường. Từ trong cung cấm, đến các phủ đệ, và cả phố xá, đều rộn lên tiếng người nói í ới, tiếng chó sủa ủng oẳng, tiếng vó ngựa lốp cốp cả tiếng "hò ơ…" từ hồ Thủy quân, hồ Dâm Đàm vẳng tới. Huyền Trân đang mơ màng trong giấc ngủ muộn, bỗng choàng dậy bởi một hồi tù và báo thức của trại cấm binh. Nàng khẽ vén tấm rèm cửa sổ, thấy ngoài đường đã tấp nập ngựa xe. Nhũ mẫu bưng đồ ăn sáng vào, công chúa chỉ dùng qua loa rồi trở về phòng trang điểm.
Bích Huệ, Thúy Quỳnh, hai nàng hầu thân cận nhất của công chúa, đã chực sẵn trong phòng. Khi Huyền Trân vừa tới, hai nàng đon đả bắt tay ngày vào việc trang điểm cho cô chủ. Bích Huệ lấy lược ngà chải tóc. Công chúa có mái tóc dày và đen nhánh như hạt dền. Thúy Quỳnh lo việc thoa phấn, to son. Trước gương, công chúa lộng lẫy như một nàng tiên. Đầu cài trâm ngọc nạm hạt châu. Cổ đeo vòng ngọc bích nạm vàng, trạm hình long vân. Mình mặc áo dài bằng vóc đại hồng thêu mây ngũ sắc, tay viền chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo cừu trắng, quần nhiễu màu thiên thanh, chân dận hài tía mũi cong, dát hồng ngọc. Công chúa bước đi uyển chuyển trong dẫy xuyên đường (2). Mỗi bước chân nàng đi, như lóa lên một thứ ánh sáng ảo diễm bởi vàng dát, ngọc đeo. Và một mùi hương dìu dịu như toát ra từ da thịt thơm tho của nàng.
Ngoài cổng, một chiếc kiệu son đã chực sẵn. Kiệu chạm nổi hình đôi chim phượng hoàng đang bay, buông rèm nhiễu tím. Tám người phu lực lưỡng, đầu cạo trọc, trán lộ rõ ba chữ "TỌA THƯỢNG NÔ" (3) màu chàm. Công chúa biết ngay là đám hầu cận của quan gia, theo lệnh của Tuyên từ thái hậu phái tới. Nàng hơi giật mình, sao có sự lạ lùng làm vậy. Bởi từ chiều hôm qua, nàng đã nhờ nhũ mẫu sang cung thái hậu, xin với kế mẫu, cho phép nàng được tự tiện dùng kiệu riêng. Thái hậu đã y lời. Cớ sao đám hầu cận của vương huynh còn đưa kiệu tới rước? Huyền Trân còn đang boăn khoăn, thì một tên trong đám nô bộc đã vòng tay cung kính nói:"Bẩm hoàng cô, chúng con được lệnh của Thái hậu, tới rước hoàng cô đi trảy hội. Thái hậu truyền chúng con thưa lại với hoàng cô rằng, hôm nay là ngày lễ thượng nguyên, dân chúng kinh kỳ và khắp các vùng lân cận đổ về đông đúc. Thái hậu ngại trong lúc xem diễn trò, dân chúng hồ hởi hò reo, xô lấn, mà đám nữ tì của hoàng cô lại chân yếu tay mềm, nên người sai chúng con tới rước hoàng cô".
Huyền Trân mỉm cười:"Mẫu hậu quá thương ta".
Bước lên kiệu, công chúa còn ngoái lại dặn hai nàng hầu:"Các em theo kiệu đi cùng ta".
Gió xuân hây hẩy, hơi xuân ấm áp, thật là một ngày tốt trời. Công chúa khẽ hé rèm nhìn quang cảnh phố phường. Đúng là từ tết nguyên đán, qua rèm còn thoảng vương mùi mật ngọt. Sức sống mùa xuân ào ạt chảy trong lòng người thiếu hôm nay trời mới hửng nắng. Sóng nắng như còn đang ngập ngừng, như còn e ngại trước uy quyền ngạo nghễ của thần băng giá, nên chưa ào ạt tuôn chảy xuống mặt đất như những ngày cuối xuân đầu hạ. Mới vậy thôi cũng đủ cho muôn vật hồi sinh. Cây cối trong các vườn nhà đã bật nảy những chồi non, lá nõn. Những búp lộc đầu cành nhựa căng ứ mọng. Đâu đây phảng phất mùi hương bưởi, hương chanh. Mấy cánh ong lao vút nữ, khiến đôi má công chúa hây hây đỏ, nom nàng rực rỡ như một đóa phù dung vừa hé nở. Kiệu ra khỏi hoàng thành, cảnh tượng đầu tiên đập vào mắt Huyền Trân là một biển người chen chúc. Dù đã có đội kỵ binh dẹp đường, nhưng kiệu của công chúa cũng chỉ nhích dần từng nửa bước. Đôi khi công chúng hò reo náo nhiệt, tưởng lay động cả kinh thành. Khó khăn lắm tám lực sĩ mới giữ được cho kiệu không nghiêng, đổ. Tới đây công chúa mới chịu sự phòng xa của kế mẫu là có lý. Ít lâu nay nàng vẫn cho rằng, từ khi Khâm từ hoàng thái hậu - mẹ nàng mất đi, nàng phải chịu sự giáo huấn quá nghiêm khắc của Tuyên từ thái hậu, người dì ruột và cũng là mẹ kế của nàng. Nhưng điều đó đã thấm tháp gì so với vị huynh trưởng của nàng - người đang ở ngôi chủ tể, trị vị cả một quốc gia, vẫn một lòng hiếu thuận, thờ mẹ kế như mẹ đẻ; sớm hôm phụng dưỡng không dám sai sót một ly, hơn cả Ngô Tôm Quyền thờ bà Ngô Quốc Thái (4).
Kiệu của Huyền Trân đến cửa đền Trấn Võ thì dừng lại. Người trên bờ hồ Dâm Đàn ken dầy như kiến. Các phường Thụy Khê, Yên Hoa, Nghi Tàm, Trích Sài, Hồ Khẩu… đều có cử dân trong các hương, ấp đem trầu, nước đặt suốt một dải bờ hồ mời khách thập phương tới dự hội.
Từ hành cung (5) một chiếc thuyền lao vút ra như một con cá kình. Hai chục tay chèo trải nước làm cho mặt hồ xao động. Thuyền vừa áp mạn trước của đền, một viên quan tùy phái từ trong khoang thuyền bước lên bờ. Vừa đặt chân lên mặt đất, ông ta vội sửa khăn áo chỉnh tề, rồi tiến đến trước kiệu của Huyền Trân vòng tay thi lễ. Công chúa bèn vén rèm ngó ra hỏi:
- Ông là người bên phủ Đại an hay phủ Kim ngô?
- Bẩm công nương, tôi được quan Đại an phủ sứ sai tới rước công nương vào dự lễ.
- Bao giờ cuộc lễ bắt đầu?
- Thưa công nương, lễ khai diễn đầu giờ Thìn.
- Phụ hoàng và hoàng huynh ta đã tới chưa?
- Dạ, thưa công nương, thượng hoàng ở phủ Thiên Trường về từ tối hôm qua, nhưng người nghỉ ở chùa Báo Ân, sáng nay người đã tới; còn quan gia vừa đến lúc cuối giờ Mão. Các quan ở trong kinh như quan hành khiển, tả, hữu thị lang, ngự sử, phiêu kỵ, kim ngô, điện súy, đô áp, đô thống… các quan ở các lộ kế với kinh thành cũng đã tề tựu đủ cả. Quan đại an và các quan chức sở tại chúng tôi đã sẵn sàng. Xin rước công nương xuống thuyền để vào dự trong lễ đài, kẻo ở đây e bất tiện.
Công chúa xuống kiệu, vẫy hai tì nữ theo mình.
Loáng cái thuyền đã đưa nàng tới hành cung. Một quang cảnh hoành tráng hiện ra trước mắt Huyền Trân. Ngay xế cửa hành cung là một chiếc lâu thuyền lớn, trang trí cực kỳ lộng lẫy. Xa xa là các đội thuyền đua của các phường, xã. Đội nào đội ấy xếp hàng đều tăm tắp, chờ hiệu lệnh.
Viên quan sở tại mời Huyền Trân vào trà thất.
Nàng không ghé và đòi đến ngay chỗ thượng hoàng.
Một chiếc thuyền nhỏ với bốn tay chèo thiện nghệ. Phải nói là họ chắp cánh cho con thuyền bay là là trên mặt nước, chứ không phải là họ chèo thuyền nữa. Chừng chưa nhai tàn miếng trầu, công chúa đã leo lên được tầng trên của chiếc lâu thuyền. Vừa nhác thấy thượng hoàng, Huyền Trân vội reo lên như một đứa trẻ.
Vua Nhân tôn xúng xính trong bộ áo cà sa hòa thượng, với niềm sung sướng được gặp lại con gái, nhà vua rời bỏ chiếc ghế đang ngồi cũng dễ dàng như khi ngài rời bỏ ngai vàng để xuất gia. Ngài tiến về phía Huyền Trân, giơ hai tay ra đón như đón một đứa trẻ lẫm chẫm tập đi. Nhà vua dẫn con gái tới ngồi cạnh mình. Một lát sau, quan đại an phủ sứ của kinh sư Đỗ Khắc Chung - người mới được nhà vua ban quốc tính (6), từ sau cuộc đại phá quân Nguyên hồi năm mậu tý (1288), đến xin thượng hoàng cho phép khai diễn cuộc lễ. Thượng hoàng bèn chỉ về phía quan gia ngồi đằng mũi thuyền.
Đúng giờ Thìn, một phát pháo hiệu nổ vang. Lập tức có tới hàng trăm thuyền từ phía gò Phượng Chủy (7) dàn hàng ngang lao vút về phía lâu thuyền. Những chiếc thuyền dài thon mình trắm, mũi và lái đều cong lên và có trạm, vẽ hình đầu rồng, đuôi rồng. Mỗi bên mạn thuyền có hai chục tay trải. Mỗi trãi thủ nắm xuôi một chiếc dầm, nom tựa hình mái chèo. Trước mỗi mũi thuyền có một người chỉ huy, mặc quần lụa đỏ, quấn xà cạp đen đến tận đầu gối, áo đỏ nẹp xanh, ngang bụng thắt một dải lụa màu mỡ gà kết múi buông xuôi bên hông trái. Hai tay cầm hai lá cờ đuôi nheo đỏ và vàng phất theo nhịp trống. Người nhấp nhô cùng hai cánh tay dang rộng ra với hai lá cờ như sắp bay lên. Giữa khoang thuyền kê một chiếc trống cái. Người đánh trống vấn chiếc khăn đầu rìu màu đỏ, mình trần, vừa gõ trống vừa múa quanh tang trống, cùng với người phất cờ hòa chung một nhịp đẩy chiếc thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Hàng trăm thuyền đua sức đua tài. Cảnh tượng diễn ra thật là hào hùng, khiến mọi người nhớ lại trận thủy chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng hồi mấy năm trước.
Tất cả các thuyền khi lướt qua thuyền ngự - Các trải thủ đều lấy đà từ xa, để sao cho khi qua lâu thuyền, thuyền đua chỉ lướt đi, mọi người trên thuyền đều trong dáng dấp ngả về phía trước, như đang gắng bơi, kỳ thực tất cả đều bất động, mặt hướng về phía thuyền ngự, tạo ra một không khí tĩnh lặng và trang nghiêm đến kỳ lạ. Bỗng xuất hiện ba chiếc thuyền như từ đáy hồ vọt lên. Những chiếc thuyền này lướt như bay. Mỗi bên mạn thuyền có năm chục tay chèo. Mỗi mái chèo gắn với một cọc chèo cố định. Các thủy thủ cũng bổ chèo theo nhịp trống. Vì là thuyền chiến, nên mạn thuyền cao, chắn lút đầu thủy thủ.Trên mỗi thuyền cũng có người phất cờ, đánh trống như các thuyền dân. Ở thuyền đi trước, thấy có hiệu cờ súy, và có tá thánh thái sư thượng tướng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đứng sau người phất cờ. Thuyền thứ hai có điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đeo thanh trường kiếm, dáng dấp uy nghiêm. Thuyền thứ ba có phiêu kỵ thượng tướng quân Trần Khánh Dư. Các thuyền chiến chỉ tham gia diễu hành, cho tăng thêm phần uy nghi thượng võ của ngày hội, chứ không tranh giải. Mỗi thuyền đều phải đua ba vòng hẹp trong lòng hồ, mỗi vòng ước độ mười lý. Thuyền đi theo hàng cọc thưa thớt, trên mỗi cọc đều cắm một lá cờ đỏ chỉ đường.
Khi đoàn thuyền đua vừa đi khỏi, chiếc lâu thuyền to lớn cũng đi theo. Chỉ thấy tiếng nước vỗ ì oạp và con thuyền nhè nhẹ lao đi. Không thấy một tay chèo nào, Huyền Trân lấy làm lạ lắm. Nàng khẽ ngoái đầu cúi nhìn xuống mạn thuyền tầng dưới, thấy các mái chèo hối hả bủa nhanh rầm rập. Có lần công chúa đã nghe nói đến một thứ thuyền lưỡng tính, dùng cho các bậc vua chúa, nửa là chiến thuyền, nửa là du thuyền. Chắc là loại thuyền này đây. Chiếc lâu thuyền lướt qua đầu đường Dụ tượng (8) để tiến về phía Bãi bắn (9) gần giữa hồ. Trần Nhân tông nhìn con gái với vẻ trìu mến. Ông thương con sống trong cảnh mồ côi mẹ. Tiếp đó, ông lại xuất gia (10), thành thử mọi sự đều phó mặc cho con tự lo, phó mặc cho bà Tuyên từ thái hậu coi sóc và điều hành nếp sống của hoàng gia. Nhà vua mỉm cười hỏi công chúa:
- Có vui không con?
- Dạ, vui lắm ạ.
- Con nghĩ gì vậy?
- Thưa phụ hoàng, công chúa vừa nói vừa nhìn ra mặt hồ rợp những thuyền đua, lòng nao nao xúc cảm - Thưa phụ hoàng - Công chúa nhắc lại, con đang nghĩ về ông ngoại - Đức quốc công tiết chế đã phá giặc Thát trên sông Bạch Đằng, cảnh chiến diễn ra chắc cũng hùng tráng như thế này phải không ạ?
Mặt nhà bỗng rạng rỡ hẳn lên. Ngài nói với con bằng một giọng âu yếm:
- Cảnh diễn ra ở đây dù hùng tráng đến thế nào, cũng chỉ là cảnh vui trong ngày hội. Bì sao được với cảnh khốc liệt trên mặt sông lúc lâm chiến hả con! Con có thể thấy lại được phần nào trong bài "Phú sông Bạch Đằng của Hán Siêu". Ông ta viết bài đó khi còn là môn khách của Quốc công tiết chế. Vậy chớ con đã đọc chưa.
- Dạ, thưa phụ hoàng, con đã đọc và cũng đã thuộc. Đó là một áng văn hay. Có thể xếp vào loại kim cổ hùng văn. Rồi công chúa hạ thấp giọng chỉ còn là tiếng thì thầm: - Ôi, tiếc quá chừng. Ước gì ngày đó mình đã lớn. Đã được chứng kiến tất cả…
Nhân tôn vỗ nhẹ vào vai con gái:
- Không nên ao ước hoặc mơ đến một điều gì, mà con biết chắc chắn là nó sẽ không bao giờ đến với con. Cả những điều sức con không làm nổi, cũng đừng nên nghĩ tới. Sự viển vông đó, là phần việc của mấy anh hủ nho mặt trắng. Con chỉ nên chăm lo đến các việc dung, công, ngôn, hạnh. Rồi trau dồi thi, thu, lễ, nhạc. Ấy là phúc của nhà ta đó con. Muốn làm được các việc đó, lúc nào con cũng phải giữ cho cái tâm được tĩnh. Tâm có tĩnh, trí mới thông. Trí có thông mới thâu nhận được cái nhẽ hoằng đại mà uẩn ảo thâm sâu trong kinh sách của thánh hiền.
- Thưa phụ hoàng, người có thể rộng phép cho con được giao tiếp với những người là rường cột của nước ta và cả những con dân một lòng, một dạ thờ vua, giữ nước.
Nhà vua nhìn con gái với vẻ cảm thông sâu sắc. Dường như điều đó làm người yên tâm, rằng cô con gái út tuy không được sự giáo dưỡng nhiều lắm của người, đã sớm tỏ ra một kẻ nhân nhu hiếu thuận. Đã biết yêu quí những gì tốt đẹp do các bậc tiền bối tạo lập. Song cũng chính điều đó làm nhà vua vô cùng kinh ngạc. Ngài chỉ đáp lại con có có vài lời giản dị:
- Mong muốn của con chẳng có chút chi trở ngại.
Mặt nước hồ bỗng xao động. Sóng vỗ ì oạp bên mạn lâu thuyền. Rồi một đoàn thuyền đua rầm rập kéo nước rút, để về đích ở vòng trót. Bỗng có ba chiếc vượt hẳn lên, và bỏ cả đoàn ở lại phía sau một khoảng cách khá xa. Ba chiếc theo sát nhau thành một hàng ngang. Rồi như có phép lạ, chiếc thuyền bên tả bỗng vọt lên như một con cá măng chạm lưới. Và cứ đà ấy, chiếc thuyền lao thẳng đến nơi cắm ngọn cờ đỏ chói. Người phất cờ lệnh đứng ở đầu mũi thuyền, lao ra khỏi chỗ, nhổ lấy cây cờ giương cao lên. Mặt nước như chùng lại. Không gian im phắc. Sau một thoáng, tiếng hò reo ùa vỡ lênh láng trên mặt hồ. Chiếc thuyền giành giải nhất, quay ngoắt mũi tiến về phía chiếc lâu thuyền, dâng cây cờ lên vái hai vua.
Khi lâu thuyền quay vào bờ, Nhân tôn cúi xuống nói nhỏ với Huyền Trân:
- Đêm nay, cha làm lễ dâng sao giải hạn cho con dân cả nước Đại Việt ta ở chùa Báo Ân. Ngày mai, cha về cung thăm các con.
Công chúa khẽ "vâng" một tiếng. Dáng mặt đầy vẻ suy tư của Huyền Trân thoáng gợn một nét buồn.
(còn tiếp)
(1) Binh thư của Trần Hưng Đạo, nay đã thất truyền.
(2) Xuyên đường: nhà để đi qua, bốn mặt không có tường chắn.
(3) Theo chế độ nhà Trần, phàm các hạng gia nô của vua và các nhà quan đều có thích chữ vào trán. Gia nô của vua thích ba chữ: Tọa thượng nô. Gia nô của các nhà quan thích ba chữ: Quan trung khách. Ngoài ra không thích chữ gì cả.
(4) Bà Quốc Thái, mẹ kế của Ngô Tôn Quyền, vua xứ Đông Ngô thời Tam quốc phân tranh ở Trung Quốc. Tôn Quyền thờ mẹ kế như mẹ đẻ, nhất nhất vâng lời. Dù những việc quốc gia trọng sự Tôn Quyền đã quyết mà không có lợi cho gia phong, bà Quốc Thái bắt phải bãi bỏ, Tôn Quyền đều không dám trái ý.
(5) Nơi chùa Trấn Quốc bây giờ, xưa là hành cung của các vua nhà Trần. Con đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên ngày nay) thu ở đó chưa có, nên hành cung ở vào vị trí như một hòn đảo.
(6) Người có công lớn với quốc gia, được nhà vua sủng ái cho phép bỏ họ cũ, theo về họ vua. Như Khắc Chung trước họ Đỗ, nay mang họ Trần.
(7) Đất hình mỏ con chim phượng, nay thuộc địa phận trường Chu Văn An.
(8), (9) Đường Dụ tượng và Bãi bắn là những địa điểm huấn luyện voi trận và quân sĩ luyện tập trên các đảo trong hồ có từ đời.
(10) Theo chế độ nhà Trần, con đến tuổi trưởng thành thì vua cha nhường ngôi cho. Tuy nhường ngôi, nhưng mọi việc lớn trong triều đều do vua cha (tức thượng hoàng) quyết định. Nhân tôn nhường ngôi cho con từ năm Quý tị (1293), tới năm Ất mùi (1295) thì xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Đến năm Kỷ hợi (1299) thì vào Yên Tử tu khổ hạnh. Tuy nhiên, ông vẫn giám sát việc triều đình rất chặt chẽ. |