Thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Bình Định đã đạt được nhiều kết quả khả quan, góp phần cải thiện cuộc sống người dân. Nhưng bước sang giai đoạn tiếp theo (năm 2010 - 2020), chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
|
Chăm sóc, tiêm phòng cho phụ nữ có thai theo định kỳ. Ảnh: Trang Xuân Chi
|
* “Cơ cấu dân số vàng”
Kết quả thực hiện Chiến lược Dân số trong 9 năm qua (2001-2009) cho thấy: Bình Định đã đạt mức sinh thay thế (2,1 con) từ năm 2005 và dự kiến giảm xuống còn 2,05 con vào năm 2010. Quy mô dân số dự kiến đạt ở mức 1,508 triệu vào năm 2010, thấp hơn nhiều so với dự kiến (1,7 triệu người). Cơ cấu dân số theo độ tuổi cũng đã thay đổi dần theo chiều hướng tích cực. Tỉ lệ dân số phụ thuộc giảm từ 69,4% (năm 1999) xuống còn khoảng 47,3% (năm 2008), trong đó tỉ lệ dân số phụ thuộc là trẻ em giảm mạnh, từ 57,5% xuống còn 33,5%. Với cơ cấu này thì dân số Bình Định đã bước vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”.
Thành tựu đạt được trong công tác dân số đã góp phần đáng kể cải thiện đời sống người dân. Tỉ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, xuống còn 11,35% trong năm 2008, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (12,1%); GDP bình quân đầu người tăng từ 3,1 triệu đồng/người năm 2000 lên 13 triệu đồng/người năm 2008; tuổi thọ bình quân tăng, suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 21,49% năm 2008 và dự kiến giảm xuống dưới 20% năm 2010.
Kết quả đó có được là nhờ tỉnh đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp trong đó công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình (SKSS - KHHGĐ) cơ bản đáp ứng nhu cầu của người sử dụng và chất lượng ngày càng được nâng cao. Đến năm 2009, tất cả các trung tâm y tế huyện, thành phố đều thực hiện được kỹ thuật triệt sản và cấy thuốc tránh thai; 154/159 trạm y tế thực hiện được các dịch vụ chăm sóc SKSS-KHHGĐ thường xuyên. Toàn tỉnh đã có 122/159 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế.
* Còn nhiều thách thức
Định hướng công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ)của tỉnh giai đoạn 2011-2020 đề ra mục tiêu: Nâng cao chất lượng dân số một cách toàn diện, trên nền tảng duy trì ổn định quy mô gia đình có từ một hoặc hai con, từng bước kiểm soát tỉ số giới tính khi sinh, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Theo thống kê, Việt Nam hiện xếp hàng thứ 13 trên thế giới về mức độ dân số. Mật độ dân số trung bình trên cả nước vào khoảng trên 250 người/km2 (thuộc loại cao nhất châu Á), trong khi theo tiêu chuẩn quốc tế, để có cuộc sống thuận lợi, mật độ bình quân tối đa chỉ 40 người. |
Đồng thời đề ra 5 giải pháp chủ yếu gồm: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác DS-KHHGĐ; củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực quản lý công tác dân số ở các cấp; đẩy mạnh xã hội hóa công tác dân số; xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về dân số và phát triển; tăng mức đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của chương trình dân số.
Tuy nhiên, tỉnh cũng đã dự báo những khó khăn, thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Đó là chương trình dân số trong những năm qua còn mất cân đối, mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc hạn chế tốc độ gia tăng dân số; còn vấn đề chất lượng dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư chưa được quan tâm đúng mức. Tuy đã đạt được mức sinh thay thế từ năm 2005, nhưng dân số vẫn chưa ổn định, tỉ số giới tính khi sinh có xu hướng gia tăng.
Bộ máy tổ chức làm công tác dân số tuy được thành lập từ tỉnh đến cơ sở nhưng qua nhiều lần sát nhập, giải thể hiện thiếu ổn định. Đội ngũ chuyên trách công tác DS-KHHGĐ không đồng bộ, nhiều người chưa được đào tạo chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ, nên chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Mức đầu tư cho chương trình DS-KHHGĐ còn thấp, bình quân chỉ khoảng 4.100 đồng/người/năm trong khi chỉ tiêu đề ra của Chiến lược Dân số là 0,6 USD/người/năm.
Bởi vậy, nếu không có quyết tâm cao và những giải pháp quyết liệt e rằng những chỉ tiêu đề ra khó trở thành hiện thực.
|