Chủ Nhật, ngày 30/3/2025 Cập nhật tin tức Festival 2008
Search
English version Vietnamese version
Tin tức hoạt động
Sự nghiệp nhà Tây Sơn
Quang Trung - Nguyễn Huệ
Di tích-Danh thắng-Đặc sản
Các dự án đầu tư
Khách sạn, nhà nghỉ
Video, nhạc, ảnh
Cuộc thi Hoa hậu Những miền Đất võ
 
Nhà Tây Sơn (tt)
14:38', 13/4/ 2008 (GMT+7)

Nguyễn Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương. Ðó là vào năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần thứ 6, tức năm 1771. Nguyễn Nhạc tổ chức lại cơ sở: - Quân sự giao cho Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú - Kinh tế tài chánh giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và Nguyễn Lữ - Dân sự (hành chánh, ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ Ngọc.

 

An Khê Trường (thị xã An Khê, vùng căn cứ buổi đầu của nhà Tây Sơn) thờ ba ngài Tây Sơn.

 

Ðất Tây Sơn trở thành một nước nhỏ. Mọi tổ chức được thực hiện trong im lặng. Lòng dân địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên tri huyện Tuy Viễn không hay biết chi cả. Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên là Vân Ðồn) không chịu nạp thuế trong hai năm liền, viên tri huyện sai Ðốc Trung Ðằng đem quân lên vấn tội. Quân của Ðằng bị quân Tây Sơn đánh bại. Nhưng Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ không được an toàn, bèn dời tổng hành dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn Trung. Lấy dãy núi ở dưới đèo An Khê làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu đóng ở hòn núi cao nhất nằm phía nam chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đóng tại hòn núi phía bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là núi Ông Bình và núi Ông Nhạc. Khu kinh tế tài chính vẫn đóng ở Tây Sơn Hạ. Và những nơi đã được khai khẩn tiếp tục tăng gia sản xuất. Trường trầu vẫn phát triển đều đặn. Các phú gia ở khắp Tuy Viễn nhiệt liệt ủng hộ. Kho lẫm được canh coi chu đáo. Tiền, lúa nhiều nhưng không hề bị thâm lạm. Thanh thế của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi thêm vững vàng vang dội. Kẻ sĩ gần xa được mời tham gia liền hưởng ứng. Bên văn có Triệu Ðình Tiệp người An Nhơn. Cao Tắc Tựu người Phù Mỹ, La Xuân Kiều người Phù Cát... bên võ thì có Nguyễn Văn Tuyết, người An Nhơn, Nguyễn Văn Lộc người làng Kỳ Sơn (Tuy Phước), Lý Văn Bưu người Phù Cát, Lê Văn Hưng người Tuy Viễn... đều là những người có tài có chí. Quân lính mộ thêm nhiều. Những người trước kia lo việc sản xuất, nếu tình nguyện, đều được đưa sang làm lính. Và tất cả quân sĩ, cứ sáu tháng ở trong quân đội, sáu tháng về các nông trại để vừa nghỉ ngơi vừa cày cuốc. Trong đám quân sĩ có một người, khi tập đã làm cho cấp chỉ huy thán phục là Lê Văn Hưng ở Kiên Dõng (Bình Khê). Ông này côn quyền đã tinh luyện, sức mạnh có thể nâng đá nhẹ nhàng như xách gàu nước, bưng nồi cơm. Nhập ngũ không bao lâu được làm đội trưởng.

Nghe tin Nguyễn Nhạc bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ, chạy vào núi chiêu tập bọn vong mạng định làm giặc, viên tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho quân lính đi lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn yên ổn, không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên cho là tin đồn nhảm, nên thôi đem quân càn quét vùng Tây Sơn. Ðỡ tốn công đối phó với kẻ thù, Tây Sơn Vương lo phát triển lực lượng. Nhận thấy người Thượng bắn ná giỏi, lại có sức mạnh và có đức tính chịu đựng bền bỉ, Nguyễn Nhạc quyết định dùng chính sách Thượng vận để lôi kéo các sắc tộc Xà Ðàng (Sédang), Rađê (Rhade), Giarai (Djarais) về với mình. Vương đã được người miền núi biết đến qua chuyện được kiếm thần. Trong dân gian Thượng cũng có chuyện được gươm thần như sau: Truyền rằng xưa kia Vua Chiêm bắt được một thanh gươm thần. Vua Chân Lạp bắt được vỏ gươm. Vua Chiêm xây một tháp cao để tàng trữ gươm thần. Ðêm đêm gươm tỏa sáng xa hàng vạn trượng. Vua Chân Lạp phải đem vỏ gươm đến dâng và hàng năm triều cống. Ánh hào quang của gươm tượng trưng cho thần lửa Thần lửa là vị thần mà người Thượng miền núi từ Quảng Nghĩa vào Phú Yên tôn thờ do ảnh hưởng văn hóa Chiêm Thành. Ðạo Minh Giáo (đạo Ma Ní) mà ông Lữ theo cũng thờ thần lửa. Do đó, ông Lữ có khả năng thuyết phục người Thượng dễ dàng. Chính vì nắm được những lợi thế đó mà Nguyễn Nhạc giao quyền điều khiển cho ông Huệ và ông Diệu, rút ông Lữ về và thân hành cùng ông Lữ lên An Khê để vận động người Thượng. Ðã được kính mộ từ trước, lại thêm có thầy hỏa giáo đi theo. Tây Sơn Vương đến đâu được người Thượng hoan nghênh đến đó. Người Giarai (Djarais) coi Vương như thần và gọi là Vua Trời. Chỉ có người Xà Ðàng (Sédang) mà chúa đoàn là Bok Kiơm không phục. Bok Kiơm nói: - Ông Nhạc không phải người trời vì không có gì khác thường. Ðể tỏ ra mình khác thường, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước đi ngang qua buôn Xà Ðàng mỗi buổi sáng sớm. Bok Kiơm cho rằng có phù phép, chớ không phải có tài trời sanh, bảo: - Nếu ông bắt được con ngựa thần thì tôi mới phục. Nguyên trên núi Hiển Hách, tục gọi là Hánh Hót ở vùng An Khê có một bầy ngựa rừng hễ thấy bóng người là chạy tránh. Con ngựa cầm đầu sắc trắng tinh, lông gáy và lông đuôi dài và óng như tơ, tiếng hí vang cả rừng và nghe xa hàng chín mười dặm thẳng. Người Thượng gọi là Ngựa Thần. Phải bắt cho được con ngựa thần ấy mới thu phục được người Xà Ðàng, mà có thu phục được người Xà Ðàng thì vùng Tây Nguyên mới thật là đất Tây Sơn, vì An Khê người Xà Ðàng ở đông đảo nhất. Nguyễn Nhạc để Nguyễn Lữ ở lại tuyên truyền, một mình về Kiên Mỹ cho người đi mua một số ngựa cái lớn tốt, đem về dạy cho khôn, hễ nghe tiếng hú là chạy đến. Bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn Nhạc đem lên thả trên núi Hiển Hách cho theo bầy ngựa rừng. Ít hôm ngựa rừng và ngựa đồng quen nhau. Hễ nghe tiếng hú thì ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy theo, nhưng vừa thấy bóng người thì quay đầu trở lại, nhưng chạy một đỗi xa xa thì quay đầu ngó lui. Nguyễn Nhạc lấy cỏ bỏ cho ngựa ăn, rồi trở về. Ngựa rừng liền quay trở lại ăn cỏ cùng ngựa đồng. Lần này ngựa rừng thấy bóng người không còn có vẻ hoảng sợ nữa, nhưng không dám lại gần. Nguyễn Nhạc không bỏ đi, đứng vuốt ve bầy ngựa, hết con này đến con khác. Mấy hôm sau bầy ngựa rừng nhận thấy người không có ý làm hại giống nòi, bèn kéo đến ăn cỏ. Khi bầy ngựa rừng đã dạn, Nguyễn Nhạc đem cỏ bỏ gần cho ăn, rồi từ từ tiến đến vuốt mõm vuốt lưng hết con này đến con khác. Con ngựa bạch cầm đầu, ban sơ còn tỏ ý không thuận, nhưng dần dần, đứng yên cho người vuốt ve. Chinh phục được bầy ngựa rừng rồi, Nguyễn Nhạc hẹn cùng Bok Kiơm nơi chốn và ngày giờ đến chứng kiến. Ðể cho bầy ngựa khỏi sợ vì đông người. Nguyễn Nhạc bảo Bok Kiơm cùng đám tùy tùng núp sau đá rồi cất tiếng hú. Bầy ngựa rừng theo bầy ngựa đồng chạy đến. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn và vuốt ve như thường lệ. Người Xà Ðàng tin Nguyễn Nhạc là người Trời thật, hết lòng thần phục và bắt chước người Gia Rai gọi là Vua Trời. Tiếng Vua Trời trở thành tiếng chung của người Thượng từ An Khê trở vô Phú Yên và trở ra Quảng Nghĩa, dùng gọi Nguyễn Nhạc.

Ở trong vùng An Khê lại có một sắc tộc thiểu số ở trong rừng sâu, ít giao thiệp với người ngoài. Ðó là người Ba Na (Banard) ở trong rừng Mộ Ðiểu. Rừng Mộ Ðiểu ở tại làng Cổ Yêm cách Tú Thủy chừng mười, mười hai cây số. Rừng rộng mênh mông. Giữa rừng nổi lên một ngọn đồi trông giống một hòn cù lao ở giữa biển cả. Mỗi buổi chiều, chim về nghỉ từng bầy, từng đám, tiếng kêu vang dậy cả rừng xanh. Do đó rừng mang tên là Mộ Ðiểu. Tuy ít giao thiệp với bên ngoài, vị đầu mục Ba Na cũng đã có nghe tiếng Vua Trời. Vì vậy không mấy chốc hai bên đã trở nên thân thiện. Ðể mối tình Kinh Thượng thêm nồng nàn khăng khít, viên đầu mục gả con gái cho Vua Trời, bà vợ Thượng của Vương, tục gọi là Cô Hầu. Nhận thấy đất đai trong rừng rất màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền nghỉ đến việc khai khẩn. Vương mộ người Thượng làm nhân công và rút một số người chỉ huy kinh tế ở Tây Sơn Hạ lên điều khiển. Rừng Mộ Ðiểu nhờ sức lao động của người Thượng - nhờ tài hướng dẫn của người Kinh, trở thành một cánh đồng phì nhiêu rộng hàng nghìn mẫu. Việc khai khẩn, việc canh tác, việc thu hoạch do Cô Hầu đảm đương với một số người Kinh, người Thượng tâm phúc trợ lực. Nguyễn Nhạc dùng phần lớn thì giờ để cùng Nguyễn Lữ đi chiêu dụ các sắc dân miền Kon Tum, Pleiku. Hai anh em đi đến đâu thì người Thượng hoan nghênh đến đó. Cho nên tất cả người Thượng vùng cao nguyên đều quy thuận Tây Sơn Vương Vương chọn trong những người khẩn hoang một số tráng niên có sức, có gan và mộ thêm người trong các vùng lân cận, tổ chức thành một đạo quân Thượng. Võ Ðình Tú, Nguyễn Văn Tuyết và Lê Văn Hưng được đưa lên phụ trách việc huấn luyện và việc tổ chức. Dinh trại đóng trên ngọn đồi. Những binh sĩ người Thượng đã được huấn luyện thuần phục đều đưa xuống giao cho Nguyễn Huệ và Trần Quang Diệu rèn luyện thêm và khép vào đội ngũ. Nguyễn Nhạc khi ở Mộ Ðiểu khi về trung nguyên, thái độ nghiêm nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý. Cho nên mọi người vừa kính sợ vừa yêu mến. Các anh hùng chí sĩ đến cùng Nguyễn Nhạc đều coi nhau như tay chân và hết lòng giúp Tây Sơn Vương dựng nghiệp cả. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, từ ngày rời chiến khu lên Tây Sơn Thượng (1771), nhà Tây Sơn đã có cơ sở vững chắc. Lúc bấy giờ vùng Tây Sơn còn thuộc về khu vực hẻo lánh, nhân dân trong vùng lại một dạ trung thành với nhà Tây Sơn, nên quan quân của chúa Nguyễn không hề hay biết. Tên biện lại thâm lạm tiền công quỹ cũng không còn ai nhắc nhở đến. Tri huyện, tuần phủ chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không lo gì đến biến chuyển của thế cuộc.

(Còn nữa)

Gửi tin nay qua Email In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Nhà Tây Sơn (tt)   (07/04/2008)
NHÀ TÂY SƠN (tt)   (03/04/2008)
Nhà Tây Sơn   (26/03/2008)
Phong trào Tây Sơn (tt)   (21/03/2008)
Phong trào Tây Sơn (tt)   (16/03/2008)
Phong trào Tây Sơn   (11/03/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)   (25/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)   (22/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)   (19/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)   (15/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)   (12/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH (tt)  (02/02/2008)
SỰ NGHIỆP TÂY SƠN TRÊN ĐẤT BÌNH ĐỊNH  (30/01/2008)