ANH HÙNG NGHĨA SĨ GIÚP NHÀ TÂY SƠN DỰNG NGHIỆP
Ðó là bên võ. Còn bên văn thì có:
* Nguyễn Thung, tuy là một phú nông song sử kinh đều thông thuộc. Tánh tình hào phóng, nhân hậu, nên rất được lòng mọi người.
* Võ Xuân Hoài, Trương Mỹ Ngọc, đức cao học rộng, hai ngôi sao về văn học đương thời ở Bình Khê và An Nhơn.
* Cao Tắc Tựu, người đẹp, học rộng lại tinh thông binh pháp. Ngày thường ít nói, nhưng khi bàn việc lớn thì lời như nước chảy. Mọi người đều kính phục.
* La Xuân Kiều, một văn sĩ có tiếng ở Phù Cát, giỏi Nôm, lại cưỡi ngựa giỏi, bắn cung hay. Thông minh hoạt bát.
* Triệu Ðình Tiệp, học rộng ưa thực tế, ghét phù hoa. Tánh thanh khiết nghiêm nghị. Rất trọng chữ tín. Giỏi việc cai trị.
Ðây là những nhân vật rường cột, ngoài ra còn rất nhiều người tài nhưng Tây Sơn Vương nhận thấy chưa đủ, nên trải lòng cầu hiền hai viên tướng Tàu là Tập Ðình ở Hội An (Quảng Nam), Lý Tài ở cửa bể Phù Ly (Quy Nhơn) đem quân ứng theo Tây Sơn Vương. Quân của Tập đình gọi là Trung nghĩa quân. Quân của Lý Tài gọi là Hoa nghĩa quân. Quân trong hai đội hầu hết đều là người Tàu to lớn, mạnh bạo. Khi ra trận uống rượu say, cởi trần, lấy giấy vàng bạc dán cùng mình, cất tiếng hét vang, sấn vào tấn công kẻ địch. Tây Sơn Vương đón tiếp nồng hậu và cho vào đóng trong thành.
Kế đó, một tráng sĩ xin vào yết kiến. Tây Sơn Vương cho mời vào thì là Phan Văn Lân, người bạn học cũ. Họ Phan người ở miền ngoài, nhưng không rõ phủ, huyện nào. Võ giỏi, tự bảo rằng võ mình được truyền từ Phạm Ngũ Lão đời Trần, thiên hạ vô địch. Nhưng khi vào An Thái yết kiến Trương Văn Hiến, thì liền lạy xin làm đệ tử. Trước kia họ Phan tự thị tự đắc bao nhiêu thì sau khi thọ giáo cùng Trương công lại khiêm tốn bấy nhiêu. Gặp được bạn cũ, Tây Sơn Vương hết sức vui mừng, mời họ Phan ở ngay trong cung, Phan không chịu xin ra nơi các dinh thự cùng chư tướng. Một hôm có một nhà sư, hình thù cổ quái, nghe tiếng tăm của Phan Văn Lân, bèn đến xin gặp, Phan tránh mặt. Nhưng quân sĩ thúc giục, Phan giả lính theo thuộc hạ ra xem. Nhưng nhà sư nhìn biết, thách Phan đấu võ. Nhận thấy nhà sư không phải hâm mộ nghệ thuật muốn làm bạn bốn phương, mà là một khách giang hồ, bụng đầy ác ý. Phan quyết định trừ khử để tránh mối họa về sau. Lúc ấy nhà sư đương ngồi uống rượu nơi tầng hai một tửu lâu ở trước thành. Phan xủ tay áo ngồi, thách nhà sư ra tay trước. Bị chạm lòng tự ái, nhà sư nổi giận thình lình đá Phan một ngón tối độc. Phan chỉ nghiêng mình, lấy tay hất nhà sư rớt xuống lầu vỡ sọ.
Khi Phan mới đến, ngoài Tây Sơn Vương, các tướng thấy Phan hiền lành, ai cũng tưởng là kẻ tầm thường. Khi Phan đánh chết nhà sư, mọi người mới biết có tài siêu việt. Tướng sĩ yêu cầu Phan cho xem tài nghệ. Phan nhất định từ chối. Nài nỉ quá, Phan bảo rinh ba tảng đá dày chồng lên nhau, rồi đưa sống bàn tay phải chém xuống. Ba tảng đá đều vỡ làm đôi như bị lưỡi gươm thần chém đứt. Ai nấy đều gọi là người thần. Nhà sư bị Phan Văn Lân hất rớt xuống tửu lâu là một người Trung Quốc, thuộc phái Thiếu Lâm.
Ở chợ Gò Chàm, phía bắc thành Quy Nhơn, còn có một nhà sư nữa cũng người Tàu thường đến biểu dương võ nghệ, thường cởi áo ngồi ngay ngắn, cho người dùng gươm đao chém vào đầu mình tay chân. Chém mạnh mấy cũng không hề gì. Tây Sơn Vương được tin, sợ nhà sư gây biến, muốn trừ, nhưng không thể giết được. Võ Văn Dũng lãnh trách nhiệm trừ nhà sư. Võ đến chợ Gò Chàm gặp nhà sư, dùng lễ khoản đãi. Khi đã nên thân, Võ hỏi: - Hòa thượng là người đã đạt đạo, không biết có khi nào bị lạc thú của trần gian cám dỗ chăng? Nhà sư đáp: - Lòng ta như tro lạnh không có gì có thể cám dỗ. Võ cười: - Lời nói không đáng tin. Có thể cho phép được thí nghiệm? Nhà sư bằng lòng. Võ thuê mươi tên thanh niên vô lại và mươi gái thanh lâu xinh đẹp trải chiếu làm việc dâm dục trước mặt nhà sư. Ban đầu nhà sư cười nói như thường. Nhưng hồi lâu, bỗng nhắm mắt không muốn nhìn nữa. Xuất kỳ bất ý, Võ rút kiếm chém một nhát, đầu nhà sư rơi liền tay. Võ nói: - Nhà sư không có thuật gì lạ. Dày công luyện khí làm cho thân thể cứng rắn. Tâm định thì khí tụ, tâm động thì khí tan. Lúc ban đầu tâm nhà sư không động nên nhà sư dám nhìn tự do. Ðến khi nhà sư nhắm mắt thì biết tâm nhà sư đã động rồi. Cho nên chém xuống, không thể kháng cự được. Ai nấy đều phục Võ là cao kiến. Tây Sơn Vương rất hài lòng.
Ít lâu sau, Trần Quang Diệu đưa một tráng sĩ về tiến cử cùng Tây Sơn Vương. Tráng sĩ đó là Võ Văn Nhậm.Võ Văn Nhậm người Quảng Nam, sức mạnh hơn người, đánh giặc giỏi, tánh phóng khoáng không chịu sự ràng buộc. Vốn là tướng của quan trấn thủ Quảng Nam, vì không chịu tuân theo luật pháp, bị tội, phải trốn vào Quy Nhơn. Nhậm đến Phù Ly, nghe người đi đường cho biết có tên cường hào cưỡng đoạt con gái chưa chồng. Nhậm giận, tuốt gươm giết tên thổ hào, rồi định đến cửa quan chịu tội. Bỗng một tráng sĩ đến vỗ vai: - Tôi xem anh chí khí tài lực đủ định loạn thiên hạ dễ dàng. Giết một con sâu dân thì có chi gọi là tội mà toan bỏ cái thiên tài hữu dụng? Sao không đến Tây Sơn Vương để chung lo việc lớn. Tôi, Trần Quang Diệu, xin tiến cử anh lên nhà vua. Võ Văn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu. Tây Sơn Vương trọng dụng và sau này gả con gái là Thọ Hương công chúa cho.
Tiếng chiêu hiền đãi sĩ của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi bay xa. Các anh hùng chí sĩ lần lượt đến giúp mỗi ngày mỗi đông. Ngày kia có người tới xin được góp sức góp tài, xưng danh là Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở người làng Bình Thạnh (Tuy Phước) có sức mạnh, giỏi võ nghệ, thông binh pháp. Cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng kết bạn thân. Ðó là những bậc kỳ tài. Còn nhiều tay võ giỏi khác ứng mộ tòng quân sau lập nhiều công lớn. Các bậc văn nhân đến phò tá Tây Sơn Vương cũng đông: Mã Vĩnh Thắng ở An Nhơn, nổi tiếng về thơ và từ; Lưu quốc Hưng ở Phú Yên, có tiếng là cương chính; Huỳnh Văn Thuận, người Quảng Nghĩa, học rộng, nổi tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, có tài thuyết phục nhân tâm; Võ Văn Cao, người ở dưới chân núi Cù Mông thuộc Phú Yên. Học rộng, giỏi kinh dịch, ghét đạo Phật đạo Lão, không ưa thơ văn phù phiếm. Chuộng thực tế. Tánh nghiêm nghị, cương trực. Anh em Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh người gốc huyện Hùng Nguyên tỉnh Nghệ An, tổ tiên bị chúa Nguyễn bắt vào khai phá khu vực phía đông chân Hòn Lớn thuộc xã Ðại Phong, huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhà nghèo nhưng thông minh hiếu học, vào An Thái thọ giáo Trương Văn Hiến, bạn đồng môn cùng anh em Nhạc, Huệ. Ngoài ra dưới cờ nữ tướng Bùi Thị Xuân có bốn phó nữ tướng trẻ đẹp tài cao: Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc. Bùi Thị Nhạn là con gái út Bùi Ðắc Lương, một cự phú thôn Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn. Ông Lương sanh ba trai là Bùi Ðắc Chí, Bùi Ðắc Trung, Bùi Ðắc Tuyên và hai gái là Bùi Thị Loan, Bùi Thị Nhạn. Bùi Thị Xuân là con Bùi Ðắc Chí gọi Bùi Thị Nhạn bằng cô, nhưng Bùi nữ tướng lớn tuổi hơn và đào tạo Bùi Thị Nhạn thành một nữ kiếm khách. Trần Thị Lan là em ruột Trần Thị Huệ phu nhân Nguyễn Nhạc, con Trần Kim Báu, cháu võ sư Trần Kim Hùng, người thôn trường Ðịnh, huyện Tuy Viễn. Khi Lan lên ba thì bà Báu qua đời, ông buồn gởi hai con cho ông bà nội Trần Kim Hùng, một thân dấn bước giang hồ. Lớn lên, Thị Huệ theo bà nội học nữ công, Thị Lan theo ông nội học võ nghệ, có tài về kiếm thuật và luyện thân lanh lẹ như chim én nên tự hiệu là Ngọc Yến. Võ sư rất yêu quý, đi đâu cũng đem theo. Trần Kim Báu vào đến Bình Khương (tức Khánh Hòa sau này) mở trường dạy võ tại huyện Quảng Phước (tức Vạn Ninh), cưới vợ địa phương sanh được một trai tên là Trần Kim Sư. Khi lên hai thì cha mất. Kim Sư sống cùng với mẹ. Võ sư Kim Hùng được tin con mất đem hai cháu vào thọ tang. Lúc ấy Thị Huệ đã mười bảy, Thị Lan lên mười hai. Tang lễ xong lão sư đem hai cháu gái về xứ. Lúc về cũng như lúc đi, lão sư bày việc mãi võ để vừa nghỉ chân vừa kiếm tiền lệ phí.
Về đến Gò Chàm lão sư gặp Nguyễn Văn Tuyết. Biết Tuyết là người có tài, lão sư về nhà giao hai cháu cho vợ rồi cùng Tuyết đi vân du. Sau đó Trần Thị Huệ kết duyên cùng Nguyễn Nhạc. Nghe tiếng Bùi Thị Xuân võ nghệ cao cường, Thị Lan theo chị lên kết bạn cùng Bùi nữ tướng. Nguyễn Thị Dung và Bùi Thị Cúc là người Quảng Ngãi. Bà Dung là em của Nguyễn Văn Xuân người làng Lạc Phổ huyện Mộ Ðức. Bà Cúc là em Huỳnh Văn Thuận người làng Ðông Quang huyện Sơn Tịnh. Hai họ là chỗ quen thân. Ông Xuân và ông Thuận có tài về văn học. Bà Dung và bà Cúc có tài về kiếm thuật. Nghe tiếng Trương Văn Hiến, bốn anh em rủ nhau vào xin thọ giáo. Trương công không thu nạp nữ đồ đệ. Ông Xuân và ông Thuận ở lại An Thái học văn. Hai cô gái được Trương công giới thiệu lên Xuân Hòa thụ nghiệp cùng Bùi Thị Xuân. Bà Dung và bà Cúc tuổi tác cùng tài nghệ tương đương với bà Nhạn bà Lan. Cả bốn đều tôn Bùi nữ tướng làm thầy và coi nhau như ruột thịt. Người đương thời gọi là Tây Sơn Ngũ Phụng thư.
Ngũ phụng đã cùng nhau tổ chức, huấn luyện và điều khiển một đoàn tượng binh gồm một trăm thớt voi và một đoàn nữ binh trên hai ngàn người cho nhà Tây Sơn. Trong Ngũ Phụng thư, chỉ Bùi Thị Xuân đã có chồng là Trần Quang Diệu, trước khi kết bạn cùng các nữ anh hùng. Còn các người khác, kẻ trước người sau lần lượt theo chồng sau khi đã lập nên danh nghiệp. Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi Phạm Thị Liên qua đời. Trần Thị Lan kết duyên cùng Nguyễn Văn Tuyết khi Tuyết đến cùng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Thị Dung kết duyên cùng Trương Ðăng Ðồ là người Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, một danh tướng của Tây Sơn. Riêng chỉ có Huỳnh Thị Cúc không chịu xuất giá, suốt đời theo phò tá Bùi Thị Xuân.
Những trang tài tuấn văn võ cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ gây dựng Nhà Tây Sơn ngoài những người đã liệt kê trên kia còn nhiều người nữa song có công đắp móng xây nên khi chưa dựng cờ khởi nghĩa thì có: - Bên võ có bảy người là: Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc, danh truyền Tây Sơn Thất Hổ tướng- Bên văn có sáu người là: Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Ðình Thiệp, Cao Tắc Tựu, người đương thời gọi là Lục Kỳ sĩ. Thất hổ tướng, Lục kỳ sĩ và Ngũ phụng thư hợp thành Tây Sơn thập bát cơ thạch, nghĩa là mười tám tảng đá làm nền móng của Nhà Tây Sơn.
(Còn nữa)
|