Báo Bình Định số 3788, ngày 4.12.2009, có đăng bài “Lẽ nào một đàn con mang hai họ?” của tác giả Công Lý, phản ánh trường hợp ông Nguyễn Chế Phong (SN 1965; ở đường 14, đảo 1A, Bắc sông Hà Thanh; thuộc KV9, phường Đống Đa, TP Quy Nhơn) đang lúng túng vì đứa con mới sinh ra không khai sinh được, do không xác định được họ để khai sinh cho con. Bài báo đã đặt ra một tình huống pháp lý rất hay và có thật trong hoạt động đăng ký hộ tịch hiện nay. Ở đây, tôi xin trao đổi thêm, để góp tiếng nói chung trong quá trình thực thi các văn bản luật.
|
Ông Phong đang “đau đầu” trước nguy cơ đàn con của mình sẽ phải mang hai họ. |
Theo nội dung bài báo nêu, trước hết, về mặt pháp luật, xin khẳng định lại là: “Cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh” (Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2005). Do vậy, cháu Chế Hoàng Ninh, con của ông Phong, sinh ra phải được khai sinh, đó là một quyền nhân thân mà pháp luật đã quy định.
Tuy nhiên, về cơ sở pháp lý và thủ tục để được khai sinh theo yêu cầu của ông Phong là cháu Ninh phải mang họ Chế; trong lúc ông Phong (cha cháu Ninh) mang họ Nguyễn, mẹ cháu Ninh (vợ ông Phong) mang họ Trần. Căn cứ theo quy định tại điểm e, khoản 1, mục II, Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 2.6.2008 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27.12.2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thì: Khi đăng ký khai sinh, họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người cha, hoặc họ và quê quán của người mẹ theo tập quán, hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ. Do vậy, trong trường hợp làm giấy khai sinh cho con, ông Phong cũng có thể lấy họ Chế, với điều kiện phải có sự thỏa thuận giữa ông và vợ ông (bằng văn bản), nhưng sự thỏa thuận của vợ chồng ông đúng pháp luật Việt Nam (Điều 27, Bộ luật Dân sự năm 2005), phù hợp phong tục tập quán, đạo đức và cùng huyết thống, dòng họ.
Để bảo đảm thống nhất giữa họ của ông Phong, với các con ông, khớp với họ của ông nội ông (con ông gọi là cố nội), theo quy định pháp luật về hộ tịch, tốt hơn hết là ông Phong nên làm cải chính họ của bản thân ông. Việc cải chính họ của ông được pháp luật quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, thì thuộc thẩm quyền của UBND TP Quy Nhơn (trên 14 tuổi). Sau đó, ông làm giấy khai sinh cho cháu Ninh mang họ Chế là thuận tiện nhất.
Một khía cạnh khác mà bài báo đề cập đến, đó là cùng một loại việc, một đối tượng, sao hai phường cùng một thành phố lại giải quyết khác nhau (!) Theo tôi, cách áp dụng khác nhau giữa hai phường đã nói lên sự quản lý, đăng ký hộ tịch chưa thống nhất trên địa bàn thành phố. Tôi rất đồng tình với tác giả bài báo là ngành Tư pháp và UBND TP Quy Nhơn cần kiểm tra, hướng dẫn chính quyền cơ sở trong công tác quản lý và đăng ký hộ tịch thống nhất; tránh xảy ra những trường hợp tương tự như của ông Nguyễn Chế Phong.
Điều 27, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định quyền thay đổi họ, tên
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
g) Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ, tên cũ. |
|