BAY ĐÂU! BÀ THIÊN CỰC CÔNG CHÚA TRẦN Thị Dung quát gọi đám nô tì.
- Dạ! Tiếng dạ ran lên từ miệng hàng chục đứa thị nữ. Chúng kéo đến vây quanh bà:
- Dạ, bẩm phu nhân, chúng con có mặt.
- Ta nghe có tiếng quân dẹp đường, có phải kiệu của đức ông về đấy không?
- Bẩm phu nhân, để con ra cổng ngó xem. - Trịnh Huyền vừa nói vừa nhanh nhảu chạy ra cổng. Một lát đã thấy về.
- Trình phu nhân, đấy là kiệu của quan Thái uý(1) phụ chính đi dạo mát.
Phu nhân lắc đầu nói nhỏ, nhưng vẫn không giấu nổi vẻ bực dọc: “Đi dạo mát mà cũng tiền hô hậu hét. Ngông nghênh quá thể. Không trách ông chú ghét là phải”. Mà lạ, hai chú cháu cứ như xung khắc ấy. Bà thầm nghĩ: “Nếu không có ta can ngăn ông ấy, không biết tình chú cháu sẽ đi đến đâu. Ta vừa là mẹ vợ nó, vừa là thím nó, nói mãi cũng chẳng lọt tai nó. Từ dạo lập phủ riêng, mộ quân luyện tập ráo riết, nó lại càng vênh váo lên mặt”.
Đám thị nữ đã lui ra hết, chỉ còn Trịnh Huyền vẫn băn khoăn đứng gần phu nhân, như muốn bày tỏ điều gì. Trịnh Huyền chính là thị nữ đã mật chuyển tờ chiếu Cần vương do quan thừa chỉ thảo đến cho Lý Huệ tôn ký, chẳng may bị lính tuần thám của Trần Thủ Độ bắt được. Việc vỡ lở, nhưng cả hai thầy trò đều được Trần Thủ Độ đại xá. Không những thế, quan thừa chỉ còn được cất nhắc, thị Huyền vẫn được tin dùng. Thị vẫn được ở lại trong cung hầu hạ đức bà, khiến thị cảm kích cái ơn cứu tử, dẫu có kết cỏ ngậm vành cũng chưa báo đáp được.
Đức bà là người khoan nhân đức độ, không chấp nê những chuyện đã qua. Nhiều lần phu nhân còn gia ân cho tiền bạc để thị về quê, chu cấp cho cha mẹ.
Thị Huyền đứng mãi, không thấy đức bà cho lui, cũng không thấy sai bảo điều gì, Huyền bèn bê khay trầu từ bàn nước đưa lại chỗ đức bà đang ngồi trên kỷ. Thiên cực đang đắm chìm vào những suy tư, chợt giật mình, bà vẫy tay ra hiệu cho thị Huyền trở lui.
Thiên cực đang mong Thủ Độ trở về để khoe biết bao là chuyện. Nhất là từ hôm được tin con gái bà - hoàng hậu Chiêu Thánh đã tắt kinh hơn một tháng, lòng bà chấp chới như muốn bay lên. Thế là bà yên tâm. Con gái bà đã ấm chỗ, chắc chân. Thảo nào nom con bé khác quá. Đang ăn chơi phổng phao thì ốm đứng ốm ngồi, chợt ngửi thấy mùi cơm đã ậm oẹ nôn mửa. Mừng thì mừng thật, nhưng bà hơi ngại. Vì sức Chiêu Thánh mảnh mai quá. Còn trẻ quá. Con bé mới chớm sang tuổi mười lăm mà đã sắp làm mẹ.
Bà bấm đốt ngón tay nhẩm tính từ ngày thái sư thống quốc đi khỏi kinh thành. Cứ như lời ông nói lúc ra đi: “Tôi chỉ đi trọn một tháng” thì hôm nay đã là một tháng năm ngày rồi, vẫn chưa thấy về.
Bà mong chồng về còn vì có chuyện bà nhờ vả ông, xin cho một thằng cháu về bên ngoại. Tức là cái tên phải gọi bà bằng bà cô để được làm câu đương(2). Chả là bữa thái sư sắp ra đi, bà hỏi:
- Ông lại sắp đi đâu đấy?
Thái sư mỉm cười, đáp:
- Tôi đi có công việc của triều đình.
- Thì có bao giờ tôi nghĩ ông đi làm việc gia đình. Chẳng qua là vợ chồng ăn ở với nhau, quen hơi bén tiếng, ông đi, vắng cửa vắng nhà, tôi cũng hỏi thế thôi. Thiên cực nói hơi có ý hờn mát.
Trần Thủ Độ làm lành:
- Tôi đi xét định hộ khẩu mấy châu Sơn Nam, Thanh Hoá. Tiện thể lựa một số câu đương.
Thiên cực hỏi:
- Vậy chớ thời bình, sao phải xét định hộ khẩu làm gì?
- Để phòng việc binh. Mình sống cạnh một nước khổng lồ. Sểnh ra là mất nước như chơi. Thôi thì cái gì lo sớm được cứ lo, chẳng hơn lúc lâm sự, trở tay không kịp.
- Ông có về Long Hưng(3) chứ?
- Có. Tôi phải tuyển ở đấy hơn chục tên câu đương. Bởi có một số già quá không làm được việc. Còn một số trẻ quá lại chỉ ham cờ bạc, trai gái, hà lạm, đục khoét của dân.
Thấy Thiên cực có vẻ băn khoăn, Thủ Độ gặng hỏi tới hai, ba lần bà mới chịu nói:
- Tôi có một thằng cháu họ ngoại, muốn xin ông gia ân cho nó một chức câu đương.
Trần Thủ Độ cười lớn:
- Tưởng chuyện gì khó, chứ chuyện ấy trong tầm tay tôi. Bà cứ nói tên họ nó cùng quê quán, làng xã để tôi biên lại, thế nào tôi cũng cho nó làm câu đương.
Bà Thiên cực thường nghĩ, mình xa quê quán kể tới mấy chục năm rồi. Nhất là họ hàng về phía bên mẹ cách sông cách đò, thảng có về thăm cũng không sang được. Nay cho thằng cháu làm chức câu đương, xem như đấy là một chút quà của bà với bên họ mẹ. Bà cũng biết tính chồng lắm. Ông ấy là người trọng nghĩa. Nhưng cũng là một người sống mẫu mực, nghiêm chính. Mấy năm ăn ở với nhau, bà còn lạ gì tính chồng. Ông chúa ghét bọn tham nhũng. Hạng người này ông ấy coi ngang với bọn lưu manh, trộm cắp. Cũng may, nhờ có nghiêm từ nhà nghiêm đi. Nghiêm từ trên nghiêm xuống, nên xã hội đã khôi phục lại được nền nếp, kỷ cương. Người dân đã được an cư lạc nghiệp. Bà Thiên cực cứ phiêu bồng hết ý nọ sang ý kia như một kẻ mộng du. Bỗng có tiếng trống điểm canh phía cổng dinh, một lát sau thị nữ Trịnh Huyền vào bẩm:
- Trình đức bà. Đức bà có người em bên quê ngoại ra thăm, đang chờ lệnh bà cho phép. Thiên cực công chúa gật đầu. Trịnh Huyền dẫn vào một bà nhà quê. Vừa trông thấy Thiên cực phu nhân, bà ta đã tru tréo lên:
- Ới cô ơi là cô, cô thương cháu mà suýt nữa cháu cô bỏ mạng rồi cô ơi.
Bà ta cứ hô hoán lên, vừa khóc vừa nói, khiến phu nhân phát hoảng. Không biết bà ta là ai, ở đâu đến. Bà ta la hét oán vọng cái gì mới được cơ chứ. Càng nghe bà ta nói, phu nhân càng không hiểu đầu đuôi sự thể ra sao nữa.
Phu nhân tỏ vẻ bực mình, truyền cho thị nữ hỏi cho ra nhẽ. Bọn thị nữ dỗ dành mãi, bà ta mới hét toáng lên:
- Thế ra cô vẫn không nhận ra tôi à? Bố tôi với mẹ cô là hai anh em ruột. Mới có một đời thôi mà đã quên hết cả họ nội, họ ngoại rồi sao?
Phu nhân vừa nhìn ngắm bà, vừa ngẫm nghĩ lời bà ta nói: “Bố tôi với mẹ cô là hai anh em ruột”. Chả lẽ đây chính là chị ta sao? Đúng rồi, chị ấy có nốt ruồi đen ngang đầu con mắt. Hồi mình còn sống ở làng Ngừ, chị ấy thường sang sông cắt cỏ trâu. Hai chị em đánh chuyền với nhau mãi không chán. Vẫn cái thói bô lô ba la, chưa thấy người đã thấy tiếng. Từ tính nết đến lời ăn tiếng nói vẫn y hệt thời con gái. Chỉ có khác là chị ấy thay đổi nhiều quá. Chị già quá, tóc bạc gần hết rồi.
Trong khi phu nhân còn đang hồi tưởng về những ngày thơ âu của hai chị em thì bà ta la lên:
- Thế ra cô vẫn không nhận ra tôi thật à, cô Dung?
Đám thị nữ xanh mắt nhìn nhau. Thị Huyền vội chạy lại bịt miệng bà khách. - Bà ăn nói gì lại không biết giữ mồm giữ miệng. Ai cho bà réo tên tục của phu nhân ra mà gọi.
Bà khách đấu dịu:
- Thế tôi phải gọi cô cháu bằng gì?
- Gọi là gì thì tuỳ bà. Hay bà cứ gọi là “Thiên cực công chúa”, hoặc “phu nhân” không thôi cũng được.
Chợt phu nhân sốc áo đứng dậy đi về phía người khách lạ. Phu nhân vái dài khách rồi nói:
- Chị Gái phải không? Bỏ lỗi cho tôi. Hơn mười năm không được về quê. Hơn hai chục năm chị em mình không gặp nhau. Bao nhiêu biến đổi tang thương đã xảy ra trên đất quê mình. Chị lên thăm tôi, quí hoá quá. Nhưng vừa rồi chị kể lể cái gì tôi nghe khiếp sợ quá. Cái gì sống sống chết chết hả chị?
- Giời ơi, chính vì cái việc sống chết ấy mà tôi phải lặn lội lên đây tìm cô. Cô biết đấy. Từ cái thuở cô được tiến kinh, cô trở thành hoàng hậu, thì bên nội cô được nhờ vả thế nào không biết. Chứ bên ngoại, tịnh không có ai cầu cạnh xin xỏ phiền quấy gì cô. Có đúng thế không? - Bà Gái vừa nói vừa gạn hỏi, khiến phu nhân phải gật xác nhận.
Phu nhân hai tay nâng khay trầu mời:
- Chị hãy cứ nhai một khẩu trầu đi đã. Suốt mấy chục năm chị em không gặp nhau. Chị trách, tôi chịu. Nhưng chị hãy bình tâm. Tôi có lỗi nhiều với quê họ mẹ. Chị biết đấy, tiếng rằng được về kinh, nhưng tính mạng tôi, lúc nào cũng như cá nằm trên thớt ấy, sung sướng gì đâu. Bà mẹ chồng, tức bà thái hậu, luôn rình rập bỏ thuốc độc vào thức ăn thức uống của tôi. Nếu Huệ tôn không tận lòng thương, chắc là tôi không còn sống đến ngày nay để nghe chị trách móc. Cực lắm chị ơi, nay nhóm này, mai phe khác, loạn lạc khắp nơi, triều đình chạy như vịt. May có ông thái sư tài hơn thiên hạ, nên đất nước mới được yên bình mấy năm. Dào ôi, cứ nghĩ lại những năm tháng đã qua mà sởn gai ốc.
Phu nhân đổ một hơi thở dài, như vừa trút đi cơn ác mộng.
Bà khách ở quê ra nhón một khẩu trầu. Cầm miếng trầu têm cánh phượng rất khéo, bà ngắm nghía rồi mở ra. Vừa mở miếng trầu bà vừa nói:
“Ăn trầu phải mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi”.
Xong bà ốp cả ba miếng trầu, cau, vỏ đút thỏm vào mồm nhai bỏm bẻm, nuốt nước miếng ừng ực. Bà lấy hai ngón tay tém từ hai khoé miệng đến vành môi, nhả miếng trầu ra cầm tay, lại nói:
- Ấy đấy, những chuyện cô nói chúng tôi bỏ ngoài tai hết. Cứ là ăn no vác nặng, tối lên giường đánh một giấc đẫy. Mặc cho ai tranh mồi phú quí, bả vinh hoa. Thời thế đổi thay như chong chóng, ai mà biết trước được. Đấy, mới hôm trước nhà Lý, hôm sau lại Trần, rồi còn cái gỉ cái gì nữa, ai mà lường hết. Mất mạng như chơi. Cánh nông phu chúng tôi không dính. Cô ngẫm xem, cô vinh hiển thế, nhưng tịnh không có một ai trong họ nhà tôi cậy nhờ cô điều gì. Có đúng không?
- Quả có như vậy. Phu nhân buồn rầu xác nhận. - À, nhưng sao chị vẫn chưa nói cho tôi hay cái điều gì “sống chết”, mà chị la trời la đất lúc vừa trông thấy tôi ấy.
- Ừ, cũng chỉ có mỗi cái việc ấy, tôi mới phải cất công lên đây, nói với cô, rằng từ nay, cô đừng có ban ân ban phước gì cho bên ngoại nữa nhé. Thằng con tôi suýt mất mạng vì chuyện cô xin cho nó làm câu đương đấy.
- Chị nói gì lạ thế chị Gái? Ông thái sư nói là đi xét định hộ khẩu, tuyển câu đương. Tôi hỏi có về vùng mình không. Ông ấy bảo “có”. Nhân tiện tôi dặn ông ấy tên tuổi làng xã thằng con chị, để ông ấy cất nhắc cháu. Tôi có ác ý gì mà chị bảo tôi giết cháu?
- Thôi được rồi, cô để tôi nói rõ ngọn ngành cho cô chừa cái thói làm ơn, làm phúc ấy đi. Bà khách nhà quê bỗng nghiêm mặt lại. Bà vứt toạch miếng bã trầu ra thềm điện, tay bà vẫn sờ sờ vào hông chiếc ống nhổ bằng đồng mắt cua mát lạnh.
- Nó là như vầy cô ạ. Đúng là ông thái sư nhà cô có về xã tôi. Ông chìa mảnh giấy ra hỏi ông xã trưởng: “Làng này có tên mỗ này không? Tìm nó cho ta”. Thằng cả nhà tôi được xã trưởng cho người đến gọi ra hầu thái sư, mừng quá. Nó dặn vợ con: “Ta là dòng tôn thất ngoại tộc. Phen này ắt thái sư đưa ta tiến triều”. Nó hăm hở đóng khăn đóng áo đi gặp ông thái sư nhà cô. Bước ra khỏi ngõ, nó còn quay lại giơ nắm đấm doạ vợ con: “Phen này ông mà được vào triều, mẹ con mày biết tay ông. Còn coi thường ông nữa không nào”. Nói xong nó cắm cổ chạy. Đúng là nó chạy cô ạ. Chẳng biết đầu cua tai ốc ra sao, thế là tôi cũng chạy theo nó ra đình.
Vừa đến nơi, tôi đã thấy nó phủ phục lạy ông thái sư nhà cô.
Ông ấy liền hỏi thằng con tôi:
- Có phải mày tên mỗ, tên mỗ…?
- Dạ, bẩm thái sư, đúng tên con đấy ạ. - Thằng cả giả nhời ông chú dõng dạc lắm.
- Mày có họ hàng gì với công chúa?
- Dạ bẩm, con là cháu gọi công chúa bằng cô đấy ạ. Dạ là về bên ngoại. Ông ngoại con và bà thân sinh ra công chúa là chỗ con cô con cậu ruột.
- Tuy là ngoại, nhưng vẫn là họ gần. Công chúa thương, xin cho mày làm câu đương, mày có nhận không?
Ông thái sư nhà cô vừa dứt lời, thằng con tôi như một đứa động rồ. Lập tức nó nhảy cẩng lên, rồi cúi rạp mình xuống:
- Lạy thái sư, con thích lắm ạ, con đội ơn thái sư.
Ông ấy liền nghiêm mặt, lạnh như tiền, nói dõng dạc:
- Ngươi vì có công chúa xin cho mới được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác.
Thằng con tôi sợ quá cô ơi. Mặt nó tái mét như con gà vừa mới cắt tiết, run lập cập, quỳ mọp trước ông thái sư nhà cô, xin được tha cho, không phải làm câu đương. Mãi ông ấy mới chịu. Về nhà, nó như thằng mất hồn.
Tôi sợ quá. Sau khi ông ấy sang xã khác, thế là tôi tốc táo lên gặp cô ngay. Sợ để lâu, cô không biết, lại xin cho cháu thăng thưởng lên chức gì đấy nữa, chắc là con tôi mất mạng!
Phu nhân chết lặng người đi. Bà không ngờ Trần Thủ Độ lại xử tệ với bà như thế.
1. Sau khi thượng hoàng Trần Thừa mất, Thái tôn phong cho anh ruột là Trần Liễu chức quan thái uý phụ chính. Đây là một chức quan đầu triều đứng trong hàng tam công.
2. Câu đương: Một chức quan đứng đầu hàng xã, tương đương với xã trưởng, đình trưởng hồi xưa, hoặc lý trưởng thời Pháp thuộc, chủ tịch xã bây giờ.
3. Long Hưng: Vùng đất huyện Hưng Hà- Thái Bình, quê hương bà Trần Thị Dung.
|