Qua bao thăng trầm của thị trường, nhiều làng nghề truyền thống ở tỉnh ta đang mất dần vị thế và có nguy cơ mai một. Dẫu vậy, vẫn còn những nghệ nhân tâm huyết, bằng nhiều cách đã âm thầm “giữ lửa” cho làng nghề truyền thống quê hương.
|
Thợ trẻ làng khảm xà cừ Cẩm Văn. Ảnh: NGỌC THÁI
|
1.
Khảm xà cừ là một trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng của đất An Nhơn. Sản phẩm và tiếng tăm của làng nghề không chỉ những người trong tỉnh biết đến, mà nhiều người ở các địa phương khác và một số Việt kiều cũng tìm đến đặt hàng. Thế nhưng, ít ai biết rằng, có thời điểm làng nghề chỉ còn một người bám trụ để “giữ” nghề, với niềm tin về một lớp truyền nhân kế cận. Đó là cụ Trần Nhi, năm nay đã 80 tuổi.
Nói về lịch sử của làng nghề, cũng như “cái nghiệp” mà mình theo đuổi cả cuộc đời, cụ Nhi bồi hồi nhớ lại: “Tôi bước vào nghề khảm năm 15 tuổi. Bài học đầu tiên tôi học được ở cha tôi là làm nghề này đòi hỏi phải khéo léo, có khiếu thẩm mỹ và phải yêu nghề, còn không thì dễ thất bại, bỏ nghề. Bài học của cha đã giúp tôi trụ vững qua bao thăng trầm của làng nghề”.
Những năm sau giải phóng, do kinh tế khó khăn, rất ít người sử dụng đồ khảm xà cừ nên làng nghề dần mai một. Có lúc, cả làng nghề chỉ còn một mình ông làm, nhưng sản phẩm vẫn không tiêu thụ được. Dẫu biết rằng nghề truyền thống đang “sống” vất vưởng, nhưng ông vẫn gắng bám trụ để truyền nghề lại cho thế hệ sau. Và rồi, cơn “bĩ cực” dần qua, mấy năm gần đây làng nghề khảm xà cừ Cẩm Văn dần hồi sinh và phát triển. Hiện cả làng nghề có khoảng 10 cơ sở sản xuất mặt hàng này, giải quyết việc làm cho gần 100 lao động, với thu nhập bình quân hơn 3 triệu đồng/người/tháng.
Giờ đây, tuy chân yếu, mắt mờ, không còn cầm đục, lia dùi được nữa, nhưng cụ Nhi vẫn say sưa với nghề và không ngừng “truyền lửa” cho thế hệ sau. “Cả cuộc đời bám trụ nghề truyền thống của cha ông, nuôi mấy đứa con trưởng thành và chứng kiến được sự phát triển trở lại của làng nghề, tôi mãn nguyện lắm rồi” - lão nghệ nhân tâm sự với chúng tôi như vậy.
|
Cụ Lê Công Trang hướng dẫn cháu gái các kỹ thuật thêu.
|
2.
Thêu là nghề truyền thống của người dân Phương Danh (Đập Đá -An Nhơn). Trải qua những biến thiên của thời gian, làng nghề vẫn tồn tại trong bao thăng trầm. Có thời điểm, cả làng nghề với trên 100 gia đình có nghề, nhưng vỏn vẹn chỉ còn 5 người giữ nghề. Đây là những nghệ nhân tâm huyết, họ giữ nghề không vì kế sinh nhai mà vì không muốn để những giá trị văn hóa đặc trưng của làng nghề trở thành… “dấu xưa xe ngựa…”.
Trong số những nghệ nhân ít ỏi “bám” nghề ấy, có cụ Lê Công Trang, đã 72 tuổi, nhưng hàng ngày vẫn luôn gìn giữ “linh hồn” của làng nghề để các thế hệ con cháu nối tiếp. “Không như nhiều nghề khác, nghề thêu đòi hỏi người thợ trước hết phải có đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, kiên nhẫn... Người thợ thêu còn là nghệ sĩ thực thụ. Bằng những sợi chỉ mong manh đủ màu sắc, với những khuôn vải rộng, hẹp nhiều kích cỡ và đôi bàn tay khéo léo, bộ óc giàu trí sáng tạo, người thợ thêu đã thả hồn vào chỉ, vào vải, tạo nên những sản phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa mang tính dân tộc vừa hiện đại…” - cụ Trang thổ lộ.
Trong lúc trò chuyện, đôi mắt của lão nghệ nhân thỉnh thoảng ánh lên niềm vui và ẩn hiện những nỗi niềm mong ước cho nghề thêu của quê hương mãi còn lưu truyền cho đến tận mai sau. Cụ Trang cho biết: Nghề này “kén” người lắm. Nếu không “có duyên” thì dù muốn cũng chẳng gắn được. May mắn là hai con của tôi đều đủ tiêu chuẩn làm “hậu duệ” của làng nghề mà bao đời cha ông gầy dựng.
|
Ông Nguyễn Đức Ngọc với các sản phẩm lưu niệm kết hợp giữa nghề đúc và nghề khảm tam khí.
|
3.
Cùng trăn trở với sự mai một của nghề truyền thống cha ông để lại, nhưng khác với cụ Nhi, cụ Trang, ông Nguyễn Đức Ngọc - Chủ tịch Hiệp hội Đúc Bằng Châu (Đập Đá) đã lặn lội đi các nơi để tìm hướng phát triển làng nghề.
Khoảng cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, làng đúc Bằng Châu rơi vào giai đoạn khó khăn. Thời kỳ này, những sản phẩm truyền thống của làng nghề, như đồ thờ tự, cồng chiêng… không còn được tiêu thụ mạnh. Lớp trẻ thì không mặn mà với nghề truyền thống của cha ông. Nhiều hộ gia đình không trụ nổi buộc phải bỏ nghề.
Không thể để một làng nghề có thâm niên trên 200 năm đi vào quên lãng, ông Ngọc đã đi nhiều nơi để tìm hướng khôi phục lại làng nghề. Năm 2008, ông phát hiện ở Đồng Sâm (Thái Bình) có nghề chạm khảm tam khí lâu đời, có thể kết hợp với nghề đúc truyền thống của quê hương. Qua tìm hiểu, ông quyết định thuê thợ ở đây về truyền nghề cho cánh thợ trẻ trong làng nghề. Từ đó, làng đúc Bằng Châu không chỉ sản xuất những sản phẩm truyền thống mà còn làm những mặt hàng lưu niệm kết hợp giữa nghề đúc với nghề khảm tam khí, như phong cảnh tháp Đôi, cầu Thị Nại, tượng Quang Trung… được nhiều khách hàng đánh giá cao, nhiều người tìm đến làng nghề đặt mua với số lượng lớn.
Ông Ngọc tâm sự: Sản phẩm của làng nghề truyền thống không chỉ là vật dụng bình thường, mà còn chứa đựng, lưu giữ những nét văn hóa cổ xưa, đọng mãi trong tâm hồn dân tộc. Để làng nghề tồn tại và phát triển, tôi luôn căn dặn cánh thợ trẻ là phải làm sao cho mỗi sản phẩm đến tay khách hàng đều thật đẹp, chất lượng, để khách hàng hài lòng và tín nhiệm.
|