Hôm qua (8.12), ngày làm việc đầu tiên của Kỳ họp thứ 16, HĐND tỉnh khóa X, các đại biểu đã nghe một loạt các báo cáo, đề án, tờ trình trong một tâm trạng kém vui, bởi năm 2009, tình hình phát triển KT-XH của tỉnh tiếp tục khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp và không bền vững, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu tăng thấp so với năm 2008 và không đạt so với kế hoạch…
|
Chủ tịch HĐND tỉnh Vũ Hoàng Hà đọc diễn văn khai mạc kỳ họp. Ảnh: Văn Lưu
|
Chiều hôm nay và cả ngày mai nữa, các đại biểu HĐND tỉnh sẽ tiếp tục mổ xẻ những nguyên nhân gây cản trở sức tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong năm 2009, góp những giải pháp để HĐND tỉnh có những quyết nghị đúng đắn, tạo cơ sở để tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ KT-XH năm 2010 - năm toàn Đảng, toàn dân tập trung huy động các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu còn lại của nhiệm kỳ mà Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh đã đề ra với mức phấn đấu cao nhất. Tuy nhiên, việc năm 2009 tỉnh ta chỉ đạt 8/16 chỉ tiêu (hầu hết là các chỉ tiêu về xã hội; trong các chỉ tiêu về kinh tế chỉ đạt chỉ tiêu thu ngân sách), đặc biệt, mức tăng tổng sản phẩm địa phương (GDP) cả năm chỉ đạt 7,96% (kế hoạch đề ra 11%), thấp nhất trong vòng 5 năm qua, là điều kém vui.
Từ Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 17 vừa được tổ chức, đến Báo cáo đánh giá tình hình KT-XH năm 2009 do Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Thiện trình bày vào sáng hôm qua, một số nguyên nhân đã được chỉ ra. Về khách quan, đó là tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân, nhất là các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất khẩu, đầu tư và du lịch; đó còn là tác động tệ hại của bão lũ cuối năm mà hệ quả của nó không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng về kết cấu hạ tầng, người và tài sản, mà còn ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống lâu dài. Bên cạnh đó, khả năng huy động nguồn lực của tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển.
Về nguyên nhân chủ quan, lãnh đạo tỉnh cũng đã chỉ rõ, đó là việc triển khai các chủ trương kích cầu của Chính phủ trên địa bàn tỉnh còn chậm, nên chưa tác động mạnh đến sản xuất, dịch vụ; năng lực quản lý điều hành và tổ chức thực hiện, tinh thần trách nhiệm của một số UBND các cấp, một số lãnh đạo các ngành chưa cao, thiếu linh hoạt, nhạy bén trong thực tiễn; sự phối hợp giữa các ngành và giữa ngành với địa phương trên nhiều mặt thiếu chặt chẽ và không có hiệu quả; tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, công chức còn yếu, thậm chí thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ; triển khai thực hiện các biện pháp chỉ đạo, điều hành còn chung chung; một số lĩnh vực yếu kém xử lý chưa kiên quyết, còn để kéo dài…
Nhìn vào các chỉ số giá trị tăng thêm của các ngành, ngoài nông, lâm, thủy sản tăng vượt kế hoạch 7,3% (kế hoạch 6%), các chỉ số giá trị tăng thêm của dịch vụ và đặc biệt là công nghiệp, xây dựng quá thấp (chỉ đạt 7,43% trong kế hoạch 17,5%); giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4,02% (kế hoạch 21%); tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD (kế hoạch 390-400 triệu USD)…
Trên thực tế, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt các giải pháp của Chính phủ về hỗ trợ vốn vay từ nguồn kích cầu đầu tư; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư vào Khu kinh tế Nhơn Hội và các khu, cụm công nghiệp… song cũng chỉ có một số sản phẩm công nghiệp tăng khá như: bia các loại, dăm gỗ, thuốc viên, tôm đông lạnh… Một số sản phẩm công nghiệp thế mạnh của tỉnh, có giá trị sản xuất lớn như: bàn ghế gỗ ngoài trời các loại giảm 28,3%; đồ gỗ nội thất giảm 46,7%, đường RS giảm 8,4%... Và chính điều này kéo theo sự suy giảm giá trị sản xuất công nghiệp, ảnh hưởng đến mức tăng tổng sản phẩm địa phương.
Bên cạnh đó, một số dự án trọng điểm về công nghiệp, dịch vụ, du lịch trong Khu kinh tế Nhơn Hội, do hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ và ảnh hưởng suy giảm kinh tế…, đã triển khai chậm hoặc chưa triển khai, dẫn đến trong năm không có thêm một cơ sở công nghiệp nào đi vào hoạt động. Một số cơ sở mở rộng sản xuất lại không sản xuất hết công suất như Nhà máy bia, Nhà máy đường…
Hôm nay và những ngày còn lại của Kỳ họp thứ 16, chắc chắn các đại biểu HĐND tỉnh sẽ có nhiều kiến giải, góp những giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian đến; song với nền công nghiệp đặc thù dựa vào một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, việc giúp các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ sớm phục hồi; đẩy mạnh việc xây dựng và đưa vào hoạt động các khu, cụm công nghiệp; quan tâm và có chính sách tạo vùng nguyên liệu mía (đang bị thu hẹp, bị cạnh tranh)… có lẽ là những ưu tiên hàng đầu, bên cạnh việc tăng cường trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc phối hợp thực thi nhiệm vụ và triển khai thực hiện các biện pháp chỉ đạo, điều hành…
TÌNH TRẠNG SINH CON THỨ 3 TRỞ LÊN:
Thách thức trong công tác dân số
|
Nhiều địa phương trong tỉnh có tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên rất cao, đơn cử như huyện Phù Cát 25,2%, huyện Hoài Ân 23,4%. Ảnh: T.Hiền |
Dù đã đạt mức sinh thay thế, nhưng Bình Định vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng sinh trở lại bởi sự biến động của tình trạng sinh con thứ 3 trở lên. Đây là một trong những vấn đề nổi cộm của kết quả giám sát tình hình thực hiện chiến lược dân số-kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) trên địa bàn tỉnh từ năm 2006 đến 6 tháng đầu năm 2009, được Ban Văn hóa-Xã hội (HĐND tỉnh) báo cáo tại Kỳ họp thứ 16, HĐND tỉnh khóa X.
Kết quả giám sát cho thấy, trong giai đoạn này tổng tỉ suất sinh tiếp tục duy trì ở mức 2,1 con. Tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 19% (năm 2005) xuống còn 18,5% (năm 2008), bình quân giảm 0,16%/năm. Nhưng thực tế, việc giảm sinh không ổn định. Riêng năm 2008, tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên không giảm mà tăng trở lại 0,8%. Nhiều địa phương có tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên khá cao, như: Phù Cát 25,2%, Hoài Ân 23,4%.
Theo các nhà quản lý, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ hàng năm lớn, tập quán và yếu tố tâm lý nặng về quy mô gia đình lớn và “trọng nam khinh nữ”, còn có nhiều nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả trên. Đó là một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác DS-KHHGĐ, nên thiếu sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách DS-KHHGĐ có xu hướng ngày càng tăng. Từ năm 2005 đến quý I.2009, toàn tỉnh có 323 cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên (chiếm 2,29%). Điều này đã gây khó khăn đến việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
Việc giải thể Ủy ban Dân số, Gia đình và trẻ em các cấp trong khi chưa có hướng dẫn về mô hình tổ chức bộ máy đối với cơ quan chuyên trách làm công tác DS-KHHGĐ đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác DS. Trình độ chuyên môn, năng lực của một bộ phận cán bộ DS cơ sở yếu, chế độ, chính sách còn bất cập. Điều 10 của Pháp lệnh Dân số ban hành thiếu chặt chẽ, nhưng chậm được sửa đổi, cũng góp phần gây hiểu nhầm, nhiều người “viện cớ” này để sinh thêm con. Mặt khác, cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhiều trạm y tế cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS), KHHGĐ ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế. Hệ thống cung cấp dịch vụ cho nhóm đối tượng vị thành niên chưa phát triển.
Để hạn chế tình trạng sinh con thứ 3 trở lên, ổn định quy mô DS, Ban Văn hóa-Xã hội kiến nghị cần tăng cường sự lãnh đạo và xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Tỉnh cũng cần có chỉ đạo xử lý kiên quyết và chấn chỉnh kịp thời tình trạng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sinh con thứ 3 trở lên. HĐND tỉnh và UBND tỉnh sớm bổ sung đủ số lượng biên chế làm công tác DS-KHHGĐ để ổn định nhân lực tuyến cơ sở; đẩy mạnh công tác thông tin, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách về DS-KHHGĐ; huy động và tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư phương tiện phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản -KHHGĐ…
| |