Cũng như nhiều khu vực ven biển, người dân xã Mỹ Chánh (huyện Phù Mỹ) từng đau đầu với nỗi lo thiếu nước sinh hoạt. Nhưng giờ đây, với sự chung tay giữa chính quyền và nhân dân, tình hình đã dần được cải thiện…
|
Anh Phan Thanh Long bên một giếng nước dưới chân đồi Miếu.
|
* Ám ảnh thiếu nước
Xã Mỹ Chánh nằm ở phía Đông của huyện Phù Mỹ, với phần lớn diện tích đất đai nằm ở khu vực vừa thấp trũng vừa giáp biển Đề Gi, nên nguồn nước sinh hoạt bị nhiễm phèn, nhiễm mặn nặng. Ở đây, chuyện một thùng nước ngọt được sử dụng nhiều lần cho nhiều mục đích khác nhau không phải là hiếm. Trước đây, người dân thường sử dụng chum, vại để hứng và dự trữ nước mưa, dẫn đến lăng quăng sinh sôi, muỗi nhiều. Nhiều năm liền, Mỹ Chánh là điểm nóng dịch sốt xuất huyết của huyện Phù Mỹ.
Trước năm 2000, cả thôn Trung Xuân chỉ có một cái giếng. Ngày hè, mực nước chưa tới 2 đốt ngón tay, người dân phải tranh nhau đi vét từng ca nước. Chị Lê Thị Kim Loan, một người dân của thôn Trung Xuân, nhớ lại: “Ngày nắng, hai vợ chồng tôi phải thay nhau cứ 2 -3 tiếng lại lo đi vét nước. Nhiều hôm, phải đi lúc 2 giờ sáng mới có được xô nước sạch để cả nhà uống. Nhiều gia đình có con nhỏ, cho con vào gàu đưa xuống giếng để vét nước. Thời gian lo vét nước nhiều quá, chẳng làm ăn gì được”.
Trước thực trạng đó, năm 2002, huyện Phù Mỹ quyết định xây dựng Nhà máy Nước sạch Mỹ Chánh. Dự án có tổng kinh phí 2,4 tỉ đồng, do Chính phủ Hà Lan tài trợ. Cuối năm 2004, Nhà máy hoàn thành, công suất 900 m3/ngày đêm. Có 1.500 hộ dân của xã Mỹ Chánh và gần 200 hộ của xã Mỹ Cát được dùng nước sạch từ Nhà máy. Đến nay, tuy Nhà máy hoạt động hết công suất nhưng vẫn không thể đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, phải luân phiên cấp nước cho từng khu vực. Và dù đã được nâng cấp năm 2008, nhưng cũng mới chỉ có 44% dân số Mỹ Chánh được tiếp cận nguồn nước sạch do Nhà máy cung cấp. Ông Phạm Văn Quang, Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Chánh, cho biết: “Chúng tôi đang có kế hoạch yêu cầu mở rộng, nâng cấp Nhà máy để đáp ứng cho 100% hộ sử dụng”.
Trước thực trạng thiếu nước sinh hoạt tại nhiều khu dân cư, Nhà máy Nước sạch Mỹ Chánh lại không cung ứng đầy đủ, đã có một người dân mạnh dạn đầu tư xây nhà máy nước.
|
Có nước sạch, gia đình anh Long còn mở nhà máy đá, tăng thêm thu nhập.
|
* Những giếng nước dưới chân đồi Miếu
Năm 2000, anh Phan Thanh Long, ở thôn Trung Xuân, nhận 5 ha đất cát để trồng điều. Lúc chuẩn bị trồng, nỗi lo lớn nhất của anh Long là thiếu nguồn nước tưới. Anh tìm thuê thợ đào giếng ở các xã Mỹ Thọ, Mỹ Cát… với mức phí 500 ngàn đồng/giếng. Nhưng sau khi khảo sát, tất cả các thợ khoan giếng đều lắc đầu từ chối. Có người khuyên anh từ bỏ ý định đào giếng ở vùng đất này.
Không bỏ cuộc, anh Long tự tìm đến chân đồi Miếu toàn đá để đào giếng. Anh Long lặn lội tìm mua, cải tiến và lắp máy khoan giếng đặc biệt để xới đá. Lúc ấy, giàn khoan của anh trị giá hơn 2,1 cây vàng. Vợ anh kể: “Ngán ngẩm cảnh thiếu nước, lại thấy anh Long quyết tâm, tôi chạy vạy vay mượn bè bạn, họ hàng để có tiền cho ảnh làm giàn khoan”.
Sau khi lắp được giàn khoan, anh Long đưa vào chạy đào giếng. Giàn khoan đào qua 9 m đất rồi đến 10 m đá mà chẳng thấy mạch nước ngầm ở đâu. Không nản chí, anh Long rủ người anh họ là Nguyễn Văn Sỹ, thợ đào giếng ở Đắk Lắk, cùng đi tìm nơi đào giếng. Gần hai tháng trời, hai anh em đã dốc công sức, tiền của vào việc tìm mạch nước ngọt. Đẽo đá hai bàn tay chai sạn, rỉ máu nhưng họ vẫn chưa tìm thấy được nguồn nước. Nhiều người khuyên anh Long từ bỏ ý nghĩ “kỳ quái” này để không tốn kém tiền của, công sức vô ích. Mặc ai nói gì, anh Long vẫn quyết tâm tìm cho ra mạch nước ngầm.
Nhưng lần đào thứ hai, anh Long và anh Sỹ đã thành công. Qua hết lớp đất, đá, dưới lớp sỏi khoảng 5 m, chiếc giếng cạnh đồi Miếu đã lộ mạch nước ngầm. Hai vợ chồng anh vui sướng đến mất ngủ. Anh xây thành bao quanh, bán kính miệng giếng rộng 2,5 m. Tiếp đó, anh Long tiếp tục đào chiếc giếng thứ hai đường kính 1,4 m, làm thành cao 2 m, lắp máy nổ đưa nước ngọt về cho cả dòng họ cùng dùng. Dần dần, hàng xóm xung quanh đến xin kéo nhờ. Khi nhu cầu tăng lên, một lần nữa, vợ chồng anh Long lại chạy vạy khắp nơi vay 60 triệu đồng để đào thêm giếng, xây dựng nhà máy nước mini, đặt thêm máy bơm, lắp đường ống dài hơn 500 m để đưa nguồn nước sạch đi xa…
Sau nhiều lần nâng cấp, hiện nhà máy nước mini của anh Long đã có 5 giếng. Mỗi ngày, nhà máy nước của anh cung cấp khoảng 50m3 nước cho hơn 100 hộ ở 2 thôn Trung Xuân và Công Xuân. Mỗi hộ sử dụng nước đóng từ 300 – 400 ngàn đồng chi phí đường ống, giá nước 2.500 đồng/m3. Do nhu cầu tiêu thụ nước cao, mùa nắng, nhà máy nước của anh Long chỉ mở được vào buổi chiều, còn buổi sáng, người dân dùng nước từ Nhà máy Nước sạch Mỹ Chánh.
Theo anh Long, nhà máy nước của anh tuy công suất chưa lớn, nhưng nhờ bảo quản tốt, có kế hoạch sử dụng hợp lý, nên đã góp phần giúp người dân trong vùng thoát khỏi cảnh thiếu thốn nước sạch.
Chị Nguyễn Thị Hoa, ở thôn Công Xuân, cho biết: “Trước đây, gia đình tôi phải thay nhau đi múc nước, phải dành một khoản chi phí lớn để mua nước sạch. Nhờ có nhà máy nước của anh Long, chúng tôi không còn phải đi mua từng can nước sạch, vừa đắt vừa khổ…”.
Cũng từ nguồn nước này, anh Long đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất nước đá. Nhờ đó, cuộc sống của gia đình anh dần ổn định, có của ăn, của để, lại duy trì được hoạt động của nhà máy nước.
|