Kho dữ liệu điện tử dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là công cụ quản lý mang lại nhiều lợi ích, giúp các nhà hoạch định chính sách dự báo được các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội về lâu dài. Tuy nhiên, hoạt động của kho dữ liệu điện tử này vẫn còn nhiều bất cập.
|
Tiêm chủng cho trẻ tại Trạm Y tế xã Tam Quan (Hoài Nhơn). Ảnh: Nguyễn Ngọc Tuấn
|
* Đầu tư đúng hướng
Kho dữ liệu DS-KHHGĐ cấp huyện được Trung ương chuyển giao phần mềm và đưa vào hoạt động từ năm 2006. Đây là dự án báo cáo hệ thông tin quản lý chuyên ngành dân số được đầu tư rất công phu, chi phí lớn.
Đến nay, mỗi huyện, thành phố được trang bị ít nhất là 2 máy nhập tin và lưu dữ liệu. Bộ phận này được bố trí 1-2 cán bộ, đã được đào tạo chương trình tin học, nghiệp vụ nhập tin và được vận hành theo quy trình công nghệ phần mềm tiên tiến. Thông qua kho dữ liệu điện tử, cán bộ quản lý có thể chiết xuất các số liệu đáp ứng theo yêu cầu cho công tác lập kế hoạch hoặc sử dụng cho việc hoạch định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi cấp; các báo cáo DS-KHHGĐ, với những thông tin cần thiết như quy mô dân số, cơ cấu dân số, xác định được giới tính, nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, các biến động về sinh - tử, chuyển đi - chuyển đến…
Thông qua kho dữ liệu điện tử, cán bộ quản lý có thể kiểm soát sự biến động nhân khẩu, theo dõi các cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ theo địa chỉ của từng hộ chính xác và kịp thời. Việc kết nối mạng tại các kho dữ liệu điện tử cũng giúp Trung ương tổng hợp và khai thác nhanh các chỉ báo về DS-KHHGĐ để kịp thời đưa ra các quyết sách, tiết kiệm thời gian; đồng thời, thay đổi được phương thức báo cáo thông qua biểu mẫu như lâu nay.
* Còn bất cập
Tuy nhiên, hoạt động của kho dữ liệu điện tử cấp huyện vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Đó là, độ sai sót thông tin trong các phiếu thu tin còn khá nhiều. Đội ngũ cán bộ dân số cơ sở có nhiều biến động; công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác thu tin chưa theo kịp yêu cầu. Trong khi đó, hoạt động giám sát để hỗ trợ cán bộ thu tin ở cơ sở chưa được thường xuyên, chưa gắn chế độ trách nhiệm với thù lao công việc, nên vẫn còn tình trạng làm được chăng hay chớ. Mặt khác, các trang thiết bị máy móc, phòng ốc, định biên cán bộ chưa đảm bảo để duy trì hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.
Vấn đề cần thiết lúc này là cần tổ chức các cuộc khảo sát để đánh giá được thực trạng tại kho dữ liệu các huyện, thành phố; từ đó, có phương án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị máy móc, nhân lực.
Đội ngũ cán bộ dân số cơ sở (bao gồm cộng tác viên dân số, cán bộ chuyên trách dân số) phải được nâng cao về năng lực quản lý. Hàng năm, đội ngũ này phải được tập huấn bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng thu tin, đồng thời cần có quy chế giám sát giữa các tuyến và người thu tin. Tại kho dữ liệu cấp huyện cần ban hành quy chế hoạt động, quy định rõ trách nhiệm về chế độ bảo mật tài liệu, bảo quản máy móc, trang thiết bị và chịu trách nhiệm về độ chính xác các thông tin đã được cung cấp.
Qua nhiều năm triển khai thực hiện, có thể khẳng định, việc áp dụng và đưa vào vận hành công nghệ phần mềm kho dữ liệu điện tử cấp huyện là hướng đi đúng. Nhưng để khai thác và sử dụng các dữ liệu ngày một tốt hơn, thiết nghĩ, cần phải sớm được đổi mới cách làm và đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất, không ngừng nâng cao năng lực quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ thu tin cho đội ngũ cán bộ dân số cơ sở; đồng thời tăng cường các hoạt động giám sát để đầu ra số liệu thật sự có đủ độ tin cậy. Có vậy thì hệ thông tin quản lý chuyên ngành dân số mới đem lại hiệu quả thiết thực, tiết kiệm được thời gian và công sức, đáp ứng kịp thời các yêu cầu công tác quản lý chỉ đạo ở các cấp.
(Trung tâm DS-KHHGĐ huyện An Nhơn) |