Việc triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách dân tộc đã tạo tiền đề quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đến nay, ở các huyện miền núi đã cơ bản hoàn thành việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ đời sống dân sinh; các tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế miền núi được khai thác đúng mức; đời sống của bà con từng bước được cải thiện.
|
Việc triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách dân tộc đã tạo tiền đề quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
- Trong ảnh: Làng K4, xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Thạnh). Ảnh: Trang Xuân Chi |
Từ nguồn vốn của Chương trình 135, 134, Nghị quyết 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi tỉnh ta được đầu tư xây dựng. Đến nay, đã có 50/50 xã miền núi có điện lưới quốc gia, số hộ dùng điện đạt 92,2%; nhiều công trình cấp nước sạch được đầu tư xây mới, nâng tỉ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên 85%; xây dựng 68 cây cầu và 117 tuyến đường giao thông đảm bảo phục vụ nhu cầu dân sinh; đã hỗ trợ xóa nhà tạm cho gần 2.000 hộ nghèo và tạo điều kiện cho trên 4.000 lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách vay vốn đầu tư phát triển sản xuất; tỉ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi giảm còn 38,98% (bình quân giảm từ 4-5%/năm), thu nhập bình quân đầu người đạt 3,5 triệu đồng/năm. Đã thực hiện 10 dự án định canh, định cư cho 497 hộ, với 2.384 nhân khẩu đến nơi ở mới với các điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất và đời sống. Hoàn thành cơ bản 10 trung tâm cụm xã với các hạng mục công trình: giao thông, hệ thống thoát nước, cửa hàng thương nghiệp, nâng cấp chợ, trụ sở xã, nhà văn hóa... tại các xã Canh Hòa, Canh Liên (Vân Canh); xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim (Vĩnh Thạnh); xã An Vinh, An Dũng, An Quang (An Lão); xã Ân Nghĩa, Bok Tới (Hoài Ân) và xã Vĩnh An (Tây Sơn) góp phần giúp việc sinh hoạt của bà con thuận tiện hơn.
Diện tích, năng suất, sản lượng lương thực tăng nhanh đảm bảo an ninh lương thực miền núi. Công tác khuyến nông, lâm, ngư; chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật được đẩy mạnh (phát triển phong trào nuôi cá nước ngọt, trồng rừng, cải tạo đàn gia súc, gia cầm...) đã góp phần thay đổi phương thức sản xuất từ tự cung, tự cấp sang sản xuất theo hướng hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ. Thực hiện hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở quy hoạch sản xuất gắn với lợi thế về tiềm năng sẵn có của từng vùng; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đặc biệt là khâu giống cây trồng, vật nuôi vào sản xuất tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung, đẩy mạnh sản xuất theo hướng chuyên canh để đạt năng suất, chất lượng. Các hợp tác xã, mô hình kinh tế trang trại, gia trại theo hướng nông, lâm kết hợp được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Ngành tiểu thủ công nghiệp miền núi được chú trọng với 5 cụm công nghiệp cùng 50 doanh nghiệp hoạt động và khoảng 1.050 cơ sở sản xuất công nghiệp đã giải quyết việc làm cho 1.900 lao động; các làng nghề truyền thống như: dệt thổ cẩm, đan lát, thủ công mỹ nghệ... được phục hồi.
Sự nghiệp giáo dục- đào tạo miền núi tiếp tục đạt được những kết quả đáng kể. 100% số xã có trường tiểu học, 99% số giáo viên đạt chuẩn, hệ thống trường lớp khá khang trang (trên 35% trường kiên cố, 3 trường phổ thông đạt chuẩn cấp quốc gia); có 5 trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, tỉnh và 9 trường bán trú với trên 2.000 học sinh theo học; đã cử tuyển 242 học sinh là con em dân tộc thiểu số theo học các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp. Mạng lưới y tế được củng cố phát triển từ huyện đến thôn, làng (100% số làng đều có nhân viên y tế hoạt động; có 20,26% trạm y tế xã đạt chuẩn; số bác sĩ công tác tại xã đạt 52,3%); hệ thống khám chữa bệnh được đầu tư nâng cấp đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho bà con dân tộc thiểu số.
Các huyện miền núi đã hình thành cơ bản hệ thống cơ sở vật chất văn hóa (93/118 làng có nhà rông, nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng). Lễ hội văn hóa - thể thao miền núi được duy trì với các hoạt động văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và có 12 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng. Đến nay, miền núi có trên 92% số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, 88% số làng đăng ký xây dựng làng văn hóa. Chương trình phát thanh tổ hợp bằng tiếng dân tộc Chăm, Bana, H’rê được duy trì thường xuyên với những nội dung bám sát cuộc sống và chuyển tải kịp thời những chủ trương của Đảng, Nhà nước đến với bà con.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số được thực hiện tốt; đã đào tạo, bồi dưỡng trên 200 lượt cán bộ là người dân tộc thiểu số tham gia các lớp về: Trung cấp lý luận chính trị, nghiệp vụ phụ vận, trung cấp hành chính, nghiệp vụ thanh vận... Đồng thời, việc thực hiện hiệu quả chính sách luân chuyển cán bộ đến các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở.
Việc thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đã đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, góp phần thực hiện tốt mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
|