(Tiếp theo và hết)
Từ ngày ở trường thi Bình Định về nhà hình như Nguyễn Bá Huân không mơ tưởng đến chuyện thi cử nữa, ông làm nghề dạy học, ông hành động đúng như vế câu đối mà giai thoại văn học truyền rằng Cao Chu Thần đã sửa cho vua Tự Đức: "Phụ nghiệp, tử năng thừa". Và chăm chú viết văn.
Học trò khắp nơi trong tỉnh đến với ông khá đông, nghe nói các sĩ tử ấy cũng chịu ảnh hưởng đường nét tính cách của thầy khá đậm, chứ không đến nỗi "nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi" như đám sĩ tử của Cao Chu Thần.
Còn về văn chương, thì ngoài số lượng thơ, từ, tạp văn hứng đâu viết đó hợp thành Mộ Châu sơn nhân thi văn từ tập ra, ông chú tâm viết về nhà Tây Sơn, có thể nói đây là mảng đề tài duy nhất trong đời văn của ông. Chúng ta dễ dàng nhận ra điều đó qua các tên gọi tác phẩm sau đây:
- Tây Sơn tiềm long lục (nói về nhà Tây Sơn lúc chưa dấy nghĩa).
- Tây Sơn cân quắc anh hùng truyện (nói về Bùi Thị Xuân và các nữ tướng).
- Tây Sơn văn thần liệt truyện.
- Bình Định hào kiệt truyện (nói về các chiến sĩ Cần Vương).
Theo tài liệu cũ Quách Tấn, ông Bá Huân còn một tác phẩm nữa, gọi là Trinh phụ khốc phu từ gồm 64 khổ, tức 256 câu song thất lục bát. Tác giả mượn lời người quả phụ khóc chồng để gởi gắm nỗi đau mất nước. Đáng tiếc cho đến nay không sao tìm được tác phẩm này.
Ngay trong thời buổi triều đình Huế và "nước mẹ" còn thâm thù nhà Tây Sơn, ngục văn tự phong tỏa toàn đất nước mà ngòi bút Nguyễn Bá Huân truyền bá đề tài này trong dân dã đất Bình Định và một số nơi khác nhằm nuôi dưỡng ý chí quật cường của quê cha đất tổ, thì rõ ràng là hành động dũng cảm.
Cuối tháng 5-1885 thực dân Pháp trắng trợn cướp nước ta. Kinh thành Huế bị thất thủ, vua Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết chạy ra phía Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương. Đào Doãn Địch vốn người Bình Định đang làm quan tại Kinh, mang chiếu về quê tụ nghĩa. Sau trận Cần Úc, Đào công lâm bệnh rồi chết, trao binh quyền cho Mai Xuân Thưởng, anh hùng hào kiệt quy tụ dưới cờ Mai tướng công không ít. Cả ba anh em Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quý Luân cùng lúc lên đường đến Bình Khê ứng nghĩa. Mai Xuân Thưởng phong Nguyễn Bá Huân làm tham tán sự vụ, trấn thủ mật khu Linh Đỗng. Đối với Bá Huân đây là một quãng đời đắc chí:
"Không cùng bạch quỷ đội trời chung
Ngòi bút thanh gươm quyết vẫy vùng
Chỉ thắm tình dân thêu gấm nghĩa
Đá gìn thế nước chất gan trung
Trời Nam phất gió cờ Trương Định
Ải Bắc ngời trăng kiếm Đặng Dung
Linh Đỗng bá tùng muôn gốc dụm
Mây tuôn anh khí, khí thêm hùng".
Rõ ràng là bài Cảm tác này ông viết lúc đang điều hành công việc tại mật khu Linh Đỗng. Chỉ tiếc là "anh khí" của phong trào Cần Vương từ mật khu Linh Đỗng tuôn ra không bao lâu thì bị tan rã bởi hai nguyên nhân:
1. Thành phần tham gia phong trào hầu hết là quan lại, khá phức tạp, nội bộ không đoàn kết, không ít nhân vật vốn là người hăng hái lúc đầu, sau trở mặt phản bội làm tay sai cho Pháp - Nguyễn Thân, Bùi Giảng, Võ Phong Mậu... là ví dụ.
2. Sai lầm trong chính sách đoàn kết dân tộc, nhất là chính sách tôn giáo, nên không được quần chúng ủng hộ mấy.
Năm 1887 Mai Xuân Thưởng cùng một số võ tướng bại trận, bị bắt rồi tuẫn quốc. Nguyễn Bá Huân ở hậu cứ, thoát khỏi nanh vuốt thực dân Pháp, tìm nơi lánh nạn, nay núi này mai núi nọ với tâm trạng:
"Giận chẳng phanh thây phường bạch quỷ
Nghĩ thêm hổ mặt đám hồng quần
Thiết tha cuốc gọi lòng phò Tống
Lạnh lẽo hoa trôi nẻo tỵ Tần."
Mãi đến năm Ất Mùi (1895) vua Thành Thái có chiếu chỉ bãi bỏ việc truy nã, truy tố các chiến sĩ Cần Vương đào tỵ, ông mới cùng hai anh em trở về làng cũ - Vân Sơn.
Lúc lánh nạn ở rừng thì chịu tang các chiến hữu. Về nhà thì chịu tang em (Nguyễn Thúc Mân) tiếp đến tang cha. Nguyễn Bá Huân như cội tùng xơ xác trước gió đông, tang tóc ngập đầu, gia đình khốn khổ, người như nửa tỉnh nửa mê...
Thời gian là liều thuốc hiệu nghiệm xoa dịu dần các vết thương trong ông. Cứu nước làm không xong thì phải cứu lấy từng con người của nước. Ông ra sức nghiên cứu sách và lấy nghề bốc thuốc đông y làm lẽ sống.
Năm 1904 Đào Tấn về hưu tại Vinh Thạnh, Tuy Phước, mang theo các nghệ sĩ từng cộng tác với ông ở Học bộ đình Nghệ An về Vinh Thạnh lập nên Học bộ đình Vinh Thạnh. Đây không chỉ là lò đào tạo các thế hệ nghệ sĩ hát bội Bình Định từ ấy về sau mà còn là nơi hội tụ các văn nhân, tài tử trong vùng đi lại.
Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo... là những người thường đến nơi đây đàm đạo về thế sự, nhân tình: phẩm bình nghệ thuật.
Đào Tấn lớn hơn Nguyễn Bá Huân mười tuổi, quan hệ giữa Bá Huân với Đào Tấn là quan hệ bạn vong niên và cũng chỉ hiểu biết nhau từ ngày Đào Tấn về hưu. Năm 1907 Đào Tấn qua đời. Nguyễn Bá Huân điếu câu đối:
- Trừu trâm quy lão dĩ tam đông, bách ưu vô phục lụy, phò tượng Xuân Quang biệt lũy, Phương Thái linh phong, mỗi phùng giai tiết tương yêu, hứa đa thành trái;
- Hàm lụy đàm tâm tài thất nhật, nhất bệnh hồ trường từ, khu xa Vinh Thạnh lý môn, Huỳnh Mai cao trũng, đồ thán cố nhân an tại, năng bất thương tình!
Quách Tấn tạm dịch:
- Rút trâm về lão tính đã ba đông, trăm nỗi lo âu thôn vướng dạ. Nương gậy đến Xuân Quơn bờ cá Phương Thái núi thiêng, những mong giai tiết chung vui hẹn nhiều nên nợ;
- Ngậm lệ tỏ lòng cách mới bảy bữa, một lần đau ốm vội chia tay! Vịn xe qua Vinh Thạnh cổng làng, Hoàng Mai cửa mộ, đành để cố nhân an nghỉ, nghĩ lắm thêm thương!
Thật đáng gọi là một trong những câu đối điếu hay so với nhiều câu khác của các sĩ phu trong Nam ngoài Bắc điếu Đào Tấn.
Năm 1915, tức là sau tám năm kể từ ngày Đào Tấn đi xa thì Nguyễn Bá Huân cũng đi theo, tuổi thọ giữa hai người không chênh lệch. Có khác chăng là sau khi âm thầm làm lễ tế Trần Quang Diệu xong rồi Nguyễn Bá Huân mới ra đi.
. Theo Liệt truyện kẻ sĩ đất thang mộc của Vũ Ngọc Liễn |