"Kiến Quang Trung linh cữu" - một tư liệu lịch sử quý
16:41', 11/11/ 2005 (GMT+7)

Tạp chí Xưa và Nay (Hội Sử học Việt Nam) số tháng 10-2005 vừa công bố một tư liệu quý liên quan đến người anh hùng "Áo vải cờ đào" Quang Trung - Nguyễn Huệ. Đó là bài thơ "Nhìn thấy linh cữu Quang Trung" (Kiến Quang Trung linh cữu).

Vua Quang Trung qua nét vẽ của họa sĩ triều Thanh, Trung Quốc.

Tác giả của bài thơ là ông Lê Triệu (còn gọi là Cả Triệu), tự Ôn Phủ, hiệu Liên Khê (1771-1846), quê ở Lệ Trung - Đại Trung - Hoàng Hóa - Thanh Hóa. Ông từng là một trong hai nhân vật được dân gian ca tụng qua câu ca: "Nghệ Hai Hành, Thanh Cả Triệu" (Nghĩa là xứ Nghệ có Hai Hành, xứ Thanh có Cả Triệu).

Khi thực hiện đề tài khoa học "Khảo sát, sưu tầm và biên dịch những di sản văn hóa Hán Nôm hiện còn ở Thanh Hóa", các nhà nhà nghiên cứu đã phát hiện bài thơ trong tập "Liên Khê Nam hành tạp vịnh" (gồm 200 bài thơ) của Lê Triệu. Bài thơ viết bằng chữ Hán, nội dung như sau:

Phiên âm:

Kiến Quang Trung linh cữu

Trấp niên sấp sá tẩu phong vân

Như thử anh hùng cổ hãn văn

Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt

"Khuân Sơn" họa tại bách niên phần

Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận

Cô phụ đường đường bát xích thân

Quang cảnh nhất ban thành phấn mị

Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần!

Dịch nghĩa:

Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung

Hai mươi năm tiếng thét át cả gió mây

Chỉ chừng ấy cũng đủ thấy là bậc anh hùng hiếm có!

Trên chiến trường Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác thù

Núi Khuân không ngờ lại để mối họa liên lụy đến phần mộ nơi yên giấc ngàn năm

Bỗng phải chịu sự chỉ trích của mối hận muôn đời

Nỡ phụ đến tấm thân tám thước của bậc anh hùng

Quang cảnh nói chung tất cả đã trở thành cát bụi

Khiến cho người đời muôn thuở cười Tần Doanh bạo chúa

(Hồng Phi phiên âm và dịch).

Dịch thơ:

Nhìn thấy linh cữu Quang Trung

Bao năm thét át phong vân

Bấy nhiêu đủ thấy minh quân, anh hùng

Hàm Đan vùi xác quân thù

Núi Khuân…

 liên lụy mộ phần…

 trăm năm…

Ngàn thu ngậm mãi hờn căm

Tấm thân tám thước…

 nỡ đem dập vùi

Giờ đây cát bụi…

 ngậm ngùi…

Doanh Tần bạo chúa, muôn đời cười chê

Qua Kiến Quang Trung linh cữu, có thể thấy ông Lê Triệu rất ngưỡng mộ, tôn kính vua Quang Trung. Tác giả bài thơ đã ca ngợi vua Quang Trung là bậc anh hùng và lên án Gia Long - Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thủy Hoàng.

Hai câu thơ đầu "Trấp niên sấp sá tẩu phong vân/Như thử anh hùng cổ hãn văn" được tác giả mượn ý từ đôi câu đối ở đền thờ Quang Trung ở Do Xuyên - Hải Thanh - Tĩnh Gia - Thanh Hóa. Đó là câu: "Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ/Miếu mạo quan lưu Bạng Hải kim" (Nghĩa là: Tiếng thét mắng (quân giặc) của người anh hùng ở núi Bân còn rực sáng để lại ở bến Lạch Bạng ngày nay).

Di tích Núi Bân (Huế) - nơi Nguyễn Huệ làm lễ cáo trời lên ngôi Hoàng đế.

Đôi câu đối trên nhắc lại sự kiện cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở núi Bân (Huế), làm lễ cáo trời đất để lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Tại đây, trước khi hành quân thần tốc ra Bắc Hà, nhà vua đã thét mắng (sất sá) quân xâm lược Mãn Thanh.

Những câu thơ tiếp theo, tác giả ám chỉ sự trả thù hèn hạ của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn và Quang Trung nói riêng. Theo đó, năm 1802, sau khi lên ngôi, Gia Long - Nguyễn Ánh đã thực hiện cuộc "tắm máu" cực kỳ tàn khốc. Không chỉ "đào mồ, cuốc mả", "tru di tam tộc" đối với dòng họ, con cháu vua Quang Trung, ngay cả những trung thần, tướng sĩ, quan lại của triều Tây Sơn cũng bị nhà Nguyễn trả thù.

Câu cuối của bài thơ "Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần!" cũng chính là lời tố cáo đanh thép đối với nhà Nguyễn, đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng của tác giả đối với Quang Trung.

Không những thế, có thể nói, Kiến Quang Trung linh cữu còn là một tư liệu lịch sử có giá trị. Như chúng ta đã biết, trong "chiến dịch trả thù", Gia Long - Nguyễn Ánh đã cho quật cả lăng mộ của vua Quang Trung và san bằng tất cả. Sách "Đại Nam Chính biên liệt truyện" (Quốc sử quán triều Nguyễn) có chép: "Mùa đông năm ấy (1802), vua về Kinh, cáo tế ở miếu, dâng những tù bắt được đem hết phép trừng trị, đào mộ Nhạc, mộ Huệ, đem giã hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục, đổi ấp Tây Sơn gọi là ấp Tây An".

Vì vậy, hơn nửa thế kỷ qua, nhiều nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học; nhiều cuộc hội thảo về lăng mộ vua Quang Trung đã được tổ chức nhằm làm sáng tỏ sự thật, xác định rõ vị trí thực sự của lăng mộ nhà vua. Ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu Nguyễn Thiệu Lâu đã thực hiện cuộc khảo sát thực địa ở phía nam kinh thành Huế và công bố bài viết "Lăng hoàng đế Quang Trung". Sau đó là hàng loạt công trình, tư liệu, bài viết của các nhà nghiên cứu: Lê Văn Hoàng, Bửu Kế, Nguyễn Hữu Đính, Phan Thuận An, Trần Đại Vinh, Nguyễn Đắc Xuân, Đỗ Bang, Mai Khắc Ứng…

Dù có những chi tiết và ý kiến trái ngược nhau, song tựu trung lại, hầu hết các nhà nghiên cứu đều tập trung dự đoán khả năng vị trí lăng mộ vua Quang Trung là ở khu vực lăng Ba Vành (nằm ở phía nam tu viện Thiên An - Huế) và khu vực gò Dương Xuân (phủ Dương Xuân, sau đó là cung điện Đan Dương).

Tuy nhiên, hầu như những ý kiến trên đều chỉ mang tính suy luận, phỏng đoán, chứ chưa có những bằng chứng thực sự thuyết phục, thậm chí có cả những ý kiến mang tính võ đoán.

Thật bất ngờ là qua bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu, tác giả Lê Triệu cho biết, ông đã từng đến viếng lăng mộ vua Quang Trung và tỏ lòng đau xót, phẫn nộ khi lăng mộ Quang Trung bị Gia Long - Nguyễn Ánh phá hủy (Quang cảnh nhất ban thành phấn mị).

Đáng lưu ý, vị trí lăng mộ vua Quang Trung được tác giả xác định cụ thể là ở trên một ngọn núi có tên là Khuân Sơn. Vậy Khuân Sơn là ngọn núi nào, ở đâu?

Lục tìm đọc tư liệu từ sách "Đại Nam Nhất thống chí" (Quốc sử quán triều Nguyễn, tập 1, Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế - 1992), chúng tôi được biết một số thông tin về ngọn Khuân Sơn. Theo đó, trang 133 sách "Đại Nam Nhất thống chí" (tập 1) có chép: "Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế - NV), có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về bắc, đi theo về phía tây có thể đến đất người Man Thượng".

Đây có thể coi là một thông tin cực kỳ quý giá đối với giới nghiên cứu sử học, khảo cổ học, nhất là đối với những người quan tâm đến triều đại Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ nói riêng.

Hoàng đế Quang Trung băng hà vào ngày 29-7 năm Nhâm Tý (1792). Hơn 213 năm đã trôi qua, song tinh thần, hoài bão và sự nghiệp "giúp dân dựng nước" của ông vẫn sống mãi trong trái tim của người dân đất Việt. Bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu chính là tấm lòng của thần dân trăm họ đối với nhà vua. Điều đáng nói, bài thơ cũng chính là một tư liệu lịch sử quý giá. Hy vọng, từ tư liệu này, vấn đề lăng mộ vua Quang Trung sẽ được các nhà sử học, khảo cổ học nghiên cứu, làm sáng tỏ.

  • Viết Hiền
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Bốn câu đối khóc vua Quang Trung  (06/11/2005)
Về những cổ vật Chăm phát hiện ở tháp Đôi  (04/11/2005)
Nước giếng vuông - tinh túy của đất trời  (04/11/2005)
Huyền thoại Chàng Lía và giá trị văn hóa tinh thần   (02/11/2005)
Lăng mộ cổ dòng họ Nguyễn Tây Sơn  (01/11/2005)
Trần Thị Kỷ - ngọn lửa bất diệt (1947-1966)  (30/10/2005)
Cuộc hành quân đành bỏ dở  (28/10/2005)
Nguyễn Bá Huân - kẻ sĩ thời nhiễu nhương  (26/10/2005)
Nguyễn Bá Huân - kẻ sĩ thời nhiễu nhương   (24/10/2005)
Huỳnh Đăng Thơ (1889-1982)   (23/10/2005)
Khám phá thành Tà Kơn huyền bí  (21/10/2005)
Căn cứ Đèo Mang  (21/10/2005)
Thành đất ở thôn An Lũy  (19/10/2005)
Đồn lũy trên đất Tây Sơn  (18/10/2005)
Bàn về "Chiếu cầu lời nói thẳng" của triều đại Tây Sơn  (16/10/2005)