Trái tim và trái bom
10:5', 4/12/ 2005 (GMT+7)

Cô gái ngoảnh nhìn lại bến đò Sem, nơi chiếc thuyền vừa đưa cô đến đây đang chậm chạp bơi ngược dòng. Sông Côn ngầu đục sau những cơn mưa đầu mùa. Đây là lần thứ hai cô đặt chân lên bến Sem, một bến đò nằm ở thượng nguồn sông Côn, con sông rộng mênh mông ngày xưa từng in bóng những chiếc thuyền của Đại quân Tây Sơn.

Chuyến đi lần trước không mấy vui, cô không gặp được người yêu của cô đang trú quân trong ngôi đình gần bến Sem. Lòng hồi hộp cô gái rời bến đò. Một cơn gió cuốn vòm lá cây si cổ thụ trên đỉnh dốc làm hàng ngàn chiếc lá reo lên, lấp lánh sáng. Hình ảnh người yêu chợt hiện đến làm cô mỉm cười. Đấy là một chàng trai cương nghị cao dong dỏng, mũi cao, mắt sáng, tóc rễ tre xoắn từng lọn, làn da ngăm ngăm nắng gió càng làm anh rắn rỏi.

Ngày nhập ngũ anh đã lên đường quá đột ngột, chưa kịp nói với nhau một lời. Nhưng cô vẫn tin có ngày anh trở về và hai người sẽ nên vợ nên chồng.

Tiếng nổ dữ dội của quả đạn pháo dứt cô khỏi những ý nghĩ về hôn nhân. Một đụn khói trắng cuộn lên phía xóm núi. Những người vừa đi thuyền với cô đã nói về khẩu đại pháo của quân Pháp đặt ở đèo An Khê bắn phá rất dã man những làng dưới chân đèo. Hàng chục dân làng và trâu bò đã bị giết hoặc bị thương vì đạn pháo. Câu chuyện của họ còn nói đến trường hợp cả nhà đang ăn cơm thì bị trúng đạn pháo không một ai sống sót. Đôi chân cô mải miết đi về làng Vĩnh Thạnh.

Chẳng mấy chốc ngôi đình Vĩnh Thạnh đồ sộ, cổ kính hiện ra trước mặt cô. Cô rẽ vào đình, nơi đơn vị đặt trạm đón tiếp. Trực ban là một người lính còn trẻ măng, khi nghe cô xin gặp "người nhà" là Ngô Mây thì nhìn cô với vẻ ngạc nhiên làm cô lúng túng đỏ mặt. Với cử chỉ ân cần đặc biệt, người lính trực ban mời cô uống nước, nghỉ ngơi, rồi vội vã đi báo tin cho Ngô Mây. Cử chỉ của người lính trẻ làm cô băn khoăn. Linh tính cho cô biết có điều gì đó không bình thường. Cô bồn chồn, hết nhìn những cây cột đền bóng loáng đỏ sậm lại nhìn sân đình rụng đầy lá vông tây. Cho đến lúc này cô vẫn không hay biết người yêu của cô ngay sau khi nhập ngũ được biên chế về đơn vị Cảm tử quân, và mới đây anh đã xung phong nhận lãnh một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Nếu anh hoàn thành cũng có nghĩa anh không còn trên cõi đời.

Lát sau, người lính trực ban trở lại báo cho cô biết Ngô Mây đã đi công tác xa, không gặp cô được.

Thực ra, Ngô Mây không hề đi công tác xa. Anh vẫn ở tại đơn vị nhưng quyết định không gặp người yêu. Cầm trên tay quà của người yêu gửi lại, tim anh rộn lên không kìm được. Anh tự nhủ: "Có lẽ cô ấy đã trở lại bến đò Sem để trở về Phù Cát. Hãy quên anh đi! Cầu mong cho em được hạnh phúc".

Hình bóng người yêu kéo anh về với đời sống. Anh bỗng nhớ da diết vùng quê nghèo Vân Triêm nơi những đồng lác bạt ngàn trải màu xanh cho đến ngõ nhà anh. Lần đầu tiên anh biết đến tình yêu trong bóng rợp vô vàn của cây lác. Mùa nước lũ ngôi nhà anh như những hòn đảo giữa biển nước mênh mông. Gốc rạ, gốc lác dìm sâu dưới màu nước bạc. Nước ngập gốc cây bồ đề trước ngõ, tràn cả vào sân nhà. Cha đã quá vãng, các anh các chị đều ra ở riêng, mẹ và em trai anh sẽ phải chèo chống việc nhà nếu vắng anh. Ngày nhập ngũ anh lên đường quá vội vàng. Thực tế, ban đầu đơn vị không chấp nhận anh, có lẽ vì cái dáng vẻ thư sinh không phù hợp với nhiệm vụ của một Cảm tử quân. Những bữa cơm đầu tiên trong quân ngũ anh luôn trở thành người thứ mười một trong mâm cơm mười người dọn cho các chiến sĩ. Quyết tâm của anh đã làm cho chỉ huy đơn vị thay đổi ý kiến.

Ngày biết mình chính thức trở thành một Cảm tử quân, anh vừa mừng vừa thương mẹ vô cùng. Thân làm trai anh chưa báo đáp được gì cho mẹ. Anh thầm mong mẹ sẽ hiểu và hãnh diện vì đã có đứa con chọn cái chết ở sa trường để đền nợ nước. Cách mạng đã đổi đời cho làng quê anh. Bọn cường hào ác bá đã bị anh và bà con Vân Triêm làm đơn vạch mặt, đấu tranh, đã bị cách mạng trừng trị. Không thể để cho chúng quay lại hà hiếp dân lành một lần nữa. Không thể để cho đất nước chịu nhục nô lệ một lần nữa. Bàn tay anh chạm vào vỏ quả bom lạnh ngắt. Đấy là quả bom hăm lăm ký láng bóng màu mồ hôi. Anh xoay người dùng răng bật mạnh chốt an toàn của quả bom. Chiếc chốt kim loại tuột ra khỏi quả bom cùng với cảm giác ê ẩm hai hàm răng. Đây là động tác anh đã tập mấy ngày liền cho thật thuần thục sau khi dùng tay rồi dùng chân tháo chốt an toàn của quả bom.

Dùng răng mở chốt an toàn của quả bom là phương án thứ ba nếu cả tay và chân đều bị thương. Quân Pháp sẽ kinh hoàng biết chừng nào khi xe tăng của chúng bị các Cảm tử quân ôm bom tấn công. Đấy cũng là thứ vũ khí khủng khiếp nhất mà quân đội cách mạng có được trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hôm đơn vị nêu phương án ôm bom tấn công xe tăng giặc, cả đại đội đều giơ tay xung phong. Khi đại đội trưởng Quách Tử Hấp ra dấu hiệu mọi người bỏ tay xuống, Ngô Mây vẫn tiếp tục giơ tay. Sau cuộc họp anh xin trực tiếp gặp lãnh đạo đơn vị để một lần nữa bày tỏ nguyện vọng. Quyết tâm của anh cuối cùng cũng được lãnh đạo đơn vị chấp thuận. Từ ngày đó quả bom đối với anh là tất cả. Nó còn quý hơn cả sinh mạng của anh. Những đám ruộng lởm chởm gốc rạ trước đình Vĩnh Thạnh từng thấm mồ hôi của anh khi anh tập ôm bom lăn qua ruộng. Anh cũng từng ôm bom vượt qua những gò mả đầy gai sắc. Quần áo anh bị rách xước nhiều chỗ. Mụt "chùm bao" ở bắp chân bị nhiễm trùng tấy lên nhức buốt, anh phải bịt lại bằng chiếc nắp hộp thuốc phiện nhỏ, đục nhiều lỗ ở trên mặt và có quai buộc vào bắp chân.

Có tiếng kẻng báo giờ cơm, Ngô Mây dừng buổi tập, dùng một miếng vải cũ cẩn thận lau lại quả bom rồi đặt vào cạnh giường mình. Từ ngày Ngô Mây được giao nhiệm vụ ôm bom cảm tử đánh xe tăng địch, anh được đơn vị cho ăn chế độ đặc biệt. Anh cảm thấy bất tiện và thường san sẻ phần thức ăn của mình cho đồng đội. Mỗi lần có ai từ chối anh thường thuyết phục bằng nụ cười hiền lành của anh con trai lớn lên từ gốc rạ, khóe miệng ánh lên chiếc răng vàng làm dáng. Anh dùng mắt kiểm tra lại quả bom lần nữa trước khi đến bếp của anh nuôi. Trong mắt anh quả bom trở nên trang nghiêm, bí hiểm.

Vào cuối năm 1947, quân Pháp ở An Khê, căn cứ bàn đạp của địch ở Tây Nguyên, liên tiếp mở những cuộc hành quân nống lấn, chuẩn bị chuyển quân vượt đèo An Khê xuống đánh chiếm vùng tự do tỉnh Bình Định. Đại đội Cảm tử quân của Ngô Mây (*) được lệnh chặn đánh cánh quân Pháp có xe tăng yểm trợ trên đèo An Khê. Lễ xuất quân được tổ chức trang nghiêm tại sân vận động Kiên Mỹ, gần điện thờ vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Đơn vị Cảm tử quân đội ngũ chỉnh tờ đứng trước khán đài. Nhân dân đến tiễn rất đông, cũng được xếp thành hàng ngũ đứng chật chung quanh. Sau lời phát biểu ngắn của vị chỉ huy nêu rõ quyết tâm chiến đấu của đơn vị, Ngô Mây được vinh dự quàng chiếc khăn quàng đỏ tượng trưng cho những người chiến sĩ quyết tử. Anh còn nhận được món quà bất ngờ: Đôi dép lốp cao su của các bà má chiến sĩ tặng. Mẹ Ngô Mây từ quê lên được mời lên khán đài phát biểu động viên các chiến sĩ. Bà dặn dò chung anh em trong đơn vị mà Ngô Mây cảm thấy như mẹ đang dặn dò riêng mình. Anh cố nén xúc động đăm đăm nhìn mẹ. Hành trang của anh bây giờ chỉ còn bộ quân phục màu ghi đậm đang mặc, quả bom, và một chiếc cuốc chim nhỏ đeo sau lưng (dụng cụ đào hố cá nhân và khai hỏa nếu kim hỏa của trái bom bị liệt). Mọi thứ quần áo đồ dùng cá nhân anh đã trao lại cho đồng đội. Anh chỉ còn áy náy mấy chiếc răng vàng làm dáng hồi ở quê, bây giờ trở nên vô dụng, muốn để lại cho đồng đội mà không được.

Vậy là giờ đây anh thanh thản vào cuộc quyết tử.

Sau lễ xuất quân, anh được mời bữa cơm thịnh soạn đặc biệt. Anh thực sự xúc động vì biết ý nghĩa của bữa cơm. Suốt bữa hầu như anh không đụng đũa vào các thức ăn.

Ngay hôm đó, đơn vị hành quân ngược đường 19 về hướng đèo An Khê.

Nơi được chọn cho cuộc quyết tử với xe tăng giặc là Hố Chuối một đoạn dốc rất hiểm trở, rất thuận lợi cho trận mai phục. Ngô Mây ôm bom ngồi dưới chiếc hố cá nhân được bí mật đào giữa rìa đường 19. Từ hố cá nhân nhìn qua hai lỗ thông hơi anh có thể thấy xe tăng giặc khi chúng xuất hiện cách mười mét đủ thời gian cho anh giật chốt an toàn quả bom. Anh hình dung cùng với chiếc xe tăng bốc lửa cái chết sẽ đến với anh nhẹ nhàng, giản dị. Thời gian trở nên nặng nề, chậm chạp.

Hơn mười ngày cánh quân Pháp có xe tăng yểm trợ rập rình ở đầu đèo để nhử quân ta. Đột ngột có tin trinh sát báo bọn địch đổi hướng, bỏ đường 19 chuyển quân theo ngã suối Vối. Chiếc hố chiến đấu của Ngô Mây được đào giữa bụi dứa dại gần đầu cầu. Ngô Mây trao lại đôi dép lốp cao su cho người trung đội trưởng rồi ngồi vào vị trí của mình. Từ nơi ẩn nấp anh có thể ôm bom lao ra đầu cầu, với sức công phá của quả bom 25 ký nếu xe tăng giặc không bốc cháy thì cũng bị hất xuống vực.

Nhưng một lần nữa quân địch lại làm đảo lộn tình thế. Hai chiếc xe tăng dẫn đầu tiểu đoàn quân Pháp đến cách cầu suối Vối ba trăm thước thì dừng lại. Khi biết cầu hỏng chúng nghi ngờ chia thành hai cánh khép gọng kiềm; vừa tiến quân vừa nhả đạn ác liệt. Đơn vị rơi vào vòng vây của quân Pháp, có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đại đội trưởng Quách Tử Hấp quyết định mở đường máu. Ngô Mây nhận được lệnh, anh lưỡng lự một thoáng: "Nếu trong khi vượt vòng vây bị tử thương thì công lao luyện tập bấy lâu nay và trái bom mà anh em công binh mất bao công sức mới có được sẽ thành vô dụng".

Anh quyết định ở lại chờ thời cơ diệt địch, dưới làn đạn địch các chiến sĩ Cảm tử quân lần lượt ngã xuống. Cuộc chiến đấu bị động và không cân sức làm cho đơn vị Cảm tử quân tổn thất nặng. Gần 20 chiến sĩ hy sinh.

Tiếng súng trên trận địa đã im bặt. Quân Pháp tưởng đã nắm chắc phần thắng rầm rộ tiến về phía cầu Suối Vối.

Đắc thắng, vừa tiến chúng vừa hô: "Việt Minh đâu! Việt Minh đâu!". Nhiều tên tiến gần bụi dứa dại! Ngô Mây tim đập mạnh. Ngón tay đặt vào chốt an toàn của quả bom. "Thời cơ diệt địch là đây, không chờ thêm được nữa!" - anh tự nhủ. Với chiếc khăn quàng đỏ của người chiến sĩ Cảm tử quân trên cổ, Ngô Mây bất ngờ đứng bật dậy hô lớn: "Việt Minh đây". Toàn thân anh căng lên cùng với chiếc chốt an toàn bật ra khỏi trái bom. Trong chớp nhoáng rừng núi rung chuyển bởi tiếng nổ xé trời. Bọn giặc rú lên. Hơn một trung đội lính Âu Phi đền tội, thây ngổn ngang. Số địch còn lại kinh hoàng bỏ xác đồng bọn tháo chạy về An Khê.

Trinh sát của đơn vị khi trở lại trận địa đã không tìm thấy thi thể của Ngô Mây. Mãi sau họ mới nhận ra chiếc chân vương bên bờ suối. Trên bắp chân còn buộc chiếc nắp hộp thuốc phiện nhỏ. Các trinh sát nghẹn ngào đứng lặng hồi lâu, rồi cẩn thận bọc phần còn lại của thi thể người đồng đội quả cảm, mai táng bên cầu Suối Vối.

Trận quyết tử xảy ra ngày 12 tháng 11 năm 1947, Ngô Mây vừa tròn 25 tuổi đời và bảy tháng tuổi quân. Cùng với tiếng bom oanh liệt bên cầu Suối Vối, anh đi vào cõi bất tử.

Ngô Mây trở thành một trong những anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

. Theo Từ Quốc Hoài (Địa chí Bình Định)

(*) Ngô Mây là chiến sĩ của đại đội Quyết tử 51A thuộc trung đoàn 120 bộ đội chủ lực hoạt động ở Bình Định và Tây Nguyên.

 

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Tìm thấy một bản in bằng chữ Nôm dưới triều Quang Trung - Tây Sơn  (02/12/2005)
Bánh in  (01/12/2005)
Đào Phan Duân - Cụ phó bảng đánh Tây, bỏ quan, được thưởng  (29/11/2005)
Đào Phan Duân - Cụ phó bảng đánh Tây, bỏ quan, được thưởng   (27/11/2005)
Thăm cảnh chùa Hang  (25/11/2005)
Truyền thuyết về cây đàn Aradon của người H're  (23/11/2005)
Ông nghè Vân Sơn với nho sĩ họ Bùi ở Phước Thắng  (21/11/2005)
Nền giáo dục Việt Nam cổ - một nền giáo dục tôn vinh hiền tài  (20/11/2005)
Báu vật thiêng liêng ở một dòng họ võ  (18/11/2005)
Nước trà quế  (17/11/2005)
Cốm bắp  (15/11/2005)
Nghệ thuật thời Tây Sơn  (13/11/2005)
"Kiến Quang Trung linh cữu" - một tư liệu lịch sử quý  (11/11/2005)
Bốn câu đối khóc vua Quang Trung  (06/11/2005)
Về những cổ vật Chăm phát hiện ở tháp Đôi  (04/11/2005)